Quảng cáo
Quảng cáo
Gemzar

Gemzar Dược động học

gemcitabine

Nhà sản xuất:

Eli Lilly
Thông tin kê toa chi tiết tiếng Việt
Dược động học
Các đặc tính dược động học của gemcitabin đã được khảo sát trên 353 bệnh nhân trong 7 nghiên cứu. Trong đó có 121 phụ nữ và 232 nam giới có độ tuổi từ 29 đến 79. Trong số những bệnh nhân này, khoảng 45% bị ung thư phổi không phải tế bào nhỏ và 35% được chẩn đoán là ung thư tuyến tụy. Các thông số dược động học dưới đây thu được với các mức liều từ 500 đến 2.592 mg/m2 được truyền trong 0,4 đến 1,2 giờ.
Nồng độ đỉnh trong huyết thanh (đạt được trong vòng 5 phút sau khi kết thúc truyền) là 3,2 đến 45,5 µg/mL. Nồng độ trong huyết thanh của hợp chất gốc sau khi dùng liều 1.000 mg/m2/30 phút là cao hơn 5 µg/mL trong khoảng 30 phút sau khi kết thúc truyền, và cao hơn 0,4 µg/mL trong 1 giờ tiếp theo.
Phân bố
Thể tích phân bố ở khoang trung tâm là 12,4 L/m2 với phụ nữ và 17,4 L/m2 ở nam giới (tính biến thiên giữa các cá thể là 91,9 %). Thể tích phân bố ở khoang ngoại vi là 47,4 L/m2. Thể tích ở khoang ngoại vi không bị ảnh hưởng bởi giới tính.
Khả năng gắn kết với protein huyết thanh coi như không đáng kể.
Thời gian bán thải: trong khoảng từ 42 đến 94 phút phụ thuộc vào tuổi và giới tính. Với biểu suất liều khuyến cáo, gemcitabin được thải trừ gần như hoàn toàn trong vòng 5 đến 11 giờ kể từ khi bắt đầu truyền. Gemcitabin không tích lũy khi sử dụng mỗi tuần một lần.
Chuyển hóa
Gemcitabin được chuyển hóa nhanh chóng bởi enzym cytidin deaminase trong gan, thận, máu và các mô khác. Chuyển hóa nội bào của gemcitabin tạo ra gemcitabin mono, di và triphosphat (dFdCMP, dFdCDP và dFdCTP) trong đó dFdCDP và dFdCTP được coi là có hoạt tính. Không tìm thấy các chất chuyển hóa nội bào này trong máu và nước tiểu. Chất chuyển hóa chính, 2'-deoxy-2', 2'-difluorouridin (dFdU), không có hoạt tính và được tìm thấy trong máu và nước tiểu.
Thải trừ
Độ thanh thải toàn thân từ 29,2 L/giờ/m2 đến 92,2 L/giờ/m2 phụ thuộc vào giới tính và tuổi (tính biến thiên giữa các cá thể là 52,2 %). Độ thanh thải ở phụ nữ thấp hơn khoảng 25% giá trị ở nam. Mặc dù tốc độ thanh thải nhanh nhưng độ thanh thải ở cả nam và nữ đều giảm theo tuổi. Với liều khuyến cáo 1.000 mg/m2 truyền trong 30 phút, giá trị độ thanh thải thấp hơn ở cả nam và nữ nên không đòi hỏi phải có sự giảm liều gemcitabin.
Thải trừ qua nước tiểu: Ít hơn 10% được thải trừ dưới dạng không đổi.
Độ thanh thải thận là từ 2 đến 7 L/giờ/m2.
Trong suốt tuần sau khi sử dụng thuốc, 92 đến 98% liều gemcitabin đã truyền được tái hiện trong đó 99% thải trừ qua nước tiểu, chủ yếu dưới dạng dFdU và 1% liều thải trừ qua phân.
Dược động học của dFdCTP
Chất chuyển hóa này có thể tìm thấy trong các tế bào đơn nhân trong máu ngoại vi và thông tin dưới đây đề cập đến các tế bào đó. Nồng độ nội bào tăng tương ứng với liều gemcitabin từ 35-350 mg/m2/30 phút, cho nồng độ trạng thái ổn định từ 0,4-5 µg/mL. Với nồng độ gemcitabin huyết thanh cao hơn 5 µg/mL, mức dFdCTP không tăng, điều đó cho thấy nồng độ dFdCTP đã bão hòa trong các tế bào này.
Thời gian bán thải của pha thải trừ cuối cùng là: 0,7-12 giờ.
Dược động học của dFdU
Nồng độ đỉnh trong huyết thanh (3-15 phút sau khi kết thúc 30 phút truyền, liều 1.000 mg/m2): 28-52 µg/mL. Nồng độ tối thiểu khi dùng liều một lần mỗi tuần: 0,07-1,12 µg/mL, không gây tích lũy thuốc. Nồng độ 3 giai đoạn trong máu so với đường cong thời gian, thời gian bán thải trung bình giai đoạn cuối là 65 giờ (từ 33-84 giờ).
Sự tạo thành dFdU từ hoạt chất gốc: 91%-98%.
Thể tích phân bố trung bình trong khoang trung tâm: 18 L/m2 (từ 11-22 L/m2).
Thể tích phân bố trung bình ở trạng thái hằng định (Vss): 151 L/m2 (từ 96-228 L/m2).
Phân bố vào mô: phạm vi rộng.
Độ thanh thải trung bình: 2,5 L/giờ/m2 (từ 1-4 L/giờ/m2).
Thải trừ qua nước tiểu: Tất cả.
Điều trị kết hợp gemcitabin với paclitaxel: Điều trị kết hợp không làm thay đổi dược động học của gemcitabin và paclitaxel.
Điều trị kết hợp gemcitabin với carboplatin: Khi dùng kết hợp với carboplatin, dược động học của gemcitabin không bị thay đổi.
Suy thận: Suy thận nhẹ đến trung bình (GFR từ 30 mL/phút đến 80 mL/phút) không ảnh hưởng đáng kể đến dược động học của gemcitabin.
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo