Các tần suất của phản ứng có hại với Zometa 4mg chủ yếu dựa vào các dữ liệu tập hợp khi dùng thuốc lâu dài. Những phản ứng bất lợi thường nhẹ và thoáng qua và tương tự với các phản ứng đã được báo cáo với những bisphosphonat khác. Các phản ứng này có thể gặp ở khoảng 1/3 bệnh nhân điều trị bằng Zometa.
Trong vòng 3 ngày sau khi dùng Zometa, đã có báo cáo thường gặp về một phản ứng giai đoạn cấp tính, với các triệu chứng bao gồm sốt, mệt mỏi, đau xương, ớn lạnh, bệnh giống cúm, viêm khớp sau đó là sưng khớp; các triệu chứng này thường hết trong vòng một vài ngày (xem tiểu mục Mô tả các phản ứng bất lợi được lựa chọn). Một số trường hợp thường gặp là đau khớp, đau cơ.
Rất thường gặp, sự giảm đào thải calci ở thận sẽ kéo theo giảm nồng độ phosphat trong huyết thanh mà không có triệu chứng lâm sàng và không cần điều trị. Thông thường, calci huyết thanh cũng có thể giảm tới mức hạ calci máu không triệu chứng.
Sau khi truyền tĩnh mạch Zometa, thường gặp các phản ứng tiêu hóa, như buồn nôn, nôn. Ít gặp những phản ứng tại chỗ truyền, như đỏ da, sưng và/hoặc đau.
Chán ăn thường gặp ở bệnh nhân dùng Zometa 4mg.
Ít gặp các trường hợp phát ban hoặc ngứa.
Cũng như với các bisphosphonat khác, thường gặp các trường hợp viêm kết mạc.
Căn cứ vào phân tích góp thành của các nghiên cứu có đối chứng với giả dược, thiếu máu nghiêm trọng (Hb < 8,0g/dL) thường gặp ở bệnh nhân dùng Zometa 4mg.
Các phản ứng bất lợi của thuốc từ các thử nghiệm lâm sàng (Bảng 7) được liệt kê dựa theo phân loại hệ thống cơ quan của MedDRA. Trong mỗi phân loại hệ thống cơ quan, phản ứng phụ của thuốc được sắp xếp theo tần suất, xếp trước nhất là thường gặp nhất.
Trong mỗi nhóm tần suất, phản ứng phụ của thuốc được đưa ra dựa theo độ nghiêm trọng giảm dần. Ngoài ra, các loại tần suất tương ứng cho mỗi phản ứng bất lợi dựa trên quy ước sau (CIOMS III): Rất thường gặp (≥1/10), thường gặp (≥1/100, <1/10), ít gặp (≥1/1000, <1/100), hiếm gặp (≥1/10.000, <1/1000), rất hiếm gặp (<1/10.000).

Các phản ứng bất lợi từ các báo cáo tự phát và các trường hợp y văn (tần suất không rõ): Các phản ứng bất lợi sau đây được báo cáo qua kinh nghiệm hậu mãi sử dụng Zometa dựa vào các báo cáo tự phát và các trường hợp y văn. Do những phản ứng này được báo cáo một cách tự nguyện từ những nhóm bệnh nhân với số lượng không biết rõ và dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố gây nhiễu, nên không thể ước tính một cách chính xác tần suất của các phản ứng ấy (vì thế mục này là “không rõ”) hoặc không thể thiết lập được quan hệ nhân quả đối với việc sử dụng thuốc.
+ Rối loạn hệ miễn dịch: Phản ứng/sốc phản vệ.
+ Rối loạn hệ thần kinh: Ngủ gà.
+ Rối loạn mắt: Viêm thượng củng mạc, viêm củng mạc và viêm hốc mắt.
+ Rối loạn tim: Rung nhĩ.
+ Rối loạn mạch: Hạ huyết áp dẫn đến ngất xỉu hoặc trụy tuần hoàn, chủ yếu ở những bệnh nhân có sẵn các yếu tố nguy cơ.
+ Rối loạn hô hấp, lồng ngực và trung thất: Co thắt phế quản.
+ Rối loạn da và mô dưới da: Mày đay.
+ Rối loạn cơ-xương và mô liên kết: Mất khả năng vận động xương, khớp và/hoặc đau cơ nặng và không thường xuyên, gãy mấu chuyển và thân xương đùi không điển hình (phản ứng phụ của nhóm bisphosphonat, bao gồm Zometa).
Mô tả các phản ứng bất lợi được lựa chọn:
Suy thận: Zometa có liên quan đến các báo cáo suy chức năng thận. Trong một phân tích gộp dữ liệu an toàn từ các thử nghiệm đăng ký của Zometa dùng để ngăn ngừa các biến cố liên quan đến xương ở những bệnh nhân ung thư tiến triển liên quan đến xương, tần suất của các biến cố suy chức năng thận bị nghi ngờ là có liên quan đến Zometa (phản ứng bất lợi) là như sau: đa u tủy (3,2%), ung thư tuyến tiền liệt (3,1%), ung thư vú (4,3%), các khối u ở phổi và các u mô đặc khác (3,2%). Các yếu tố có thể làm tăng khả năng hư hại chức năng thận bao gồm mất nước, suy thận có trước, sử dụng nhiều chu kỳ điều trị bằng Zometa hoặc các bisphosphonat khác, cũng như sử dụng đồng thời các thuốc gây độc thận hoặc truyền với thời gian ngắn hơn so với khuyến cáo. Suy giảm chức năng thận, tiến triển dẫn đến suy thận và lọc máu đã được báo cáo ở những bệnh nhân sau khi dùng liều khởi đầu hoặc liều duy nhất Zometa (xem phần Cảnh báo, Tương tác).
Hoại tử xương: Các trường hợp hoại tử xương (chủ yếu ở xương hàm nhưng ngoài ra cũng có gặp ở các vùng giải phẫu khác bao gồm xương chậu, xương đùi và ống tai ngoài) đã được báo cáo vượt trội hơn ở bệnh nhân dùng bisphosphonat, kể cả Zometa. Nhiều bệnh nhân bị hoại tử xương hàm có dấu hiệu nhiễm khuẩn tại chỗ, bao gồm viêm xương-tủy. Phần lớn các báo cáo kể đến các bệnh nhân ung thư sau khi nhổ răng hoặc các phẫu thuật khác về răng. Hoại tử xương hàm có nhiều yếu tố nguy cơ đã được ghi nhận rõ, bao gồm chẩn đoán ung thư, các thuốc khác dùng đồng thời (ví dụ: hóa trị liệu, thuốc chống sinh mạch, phóng xạ trị liệu, corticosteroid) và các điều kiện gây bệnh đồng thời (ví dụ: thiếu máu, bệnh về đông máu, nhiễm khuẩn, bệnh sẵn có về miệng). Mặc dù chưa xác định được mối liên hệ nhân quả, nhưng rất cần thận trọng tránh phẫu thuật răng vì sẽ kéo dài thời gian hồi phục (xem phần Cảnh báo). Dữ liệu cho thấy tần suất lớn hơn của các báo cáo về hoại tử xương hàm dựa trên loại khối u (ung thư vú tiến triển, đa u tủy).
Phản ứng giai đoạn cấp tính: Phản ứng giai đoạn cấp tính là một tập hợp nhiều triệu chứng gồm có sốt, mệt mỏi, đau xương, ớn lạnh, bệnh giống cúm, viêm khớp sau đó là sưng khớp. Thời gian khởi phát là ≤ 3 ngày sau khi truyền Zometa, và phản ứng này cũng được gọi bằng thuật ngữ triệu chứng “giống cúm” (flu-like) hoặc “hậu liều” (post-dose); các triệu chứng này thường hết trong vòng một vài ngày.
Rung nhĩ: Trong một thử nghiệm có đối chứng kéo dài 3 năm, ngẫu nhiên, mù đôi để đánh giá tính hiệu quả và an toàn của acid zoledronic 5 mg dùng 1 lần/năm so sánh với giả dược trong điều trị loãng xương sau mãn kinh (PMO), tỷ lệ toàn bộ của rung nhĩ là 2,5% (96 trong số 3.862) ở bệnh nhân dùng acid zoledronic 5 mg và 1,9% (75 trong số 3.852) ở bệnh nhân dùng giả dược. Tỷ lệ tác dụng phụ rung nhĩ nặng là 1,3% (51 trong số 3.862) ở bệnh nhân dùng acid zoledronic 5 mg và 0,6% (22 trong số 3.852) ở bệnh nhân dùng giả dược. Không quan sát thấy trong các thử nghiệm khác với acid zoledronic, kể cả những thử nghiệm với Zometa (acid zoledronic) 4 mg mỗi 3 đến 4 tuần trên bệnh nhân ung thư, sự thiếu cân bằng đã thấy trong thử nghiệm này. Vẫn chưa biết cơ chế gây tăng tỷ lệ rung nhĩ chỉ có riêng trong thử nghiệm lâm sàng này.
View ADR Reporting Link