Lisonorm Mỗi viên: Lisinopril 10 mg (dưới dạng lisinopril dihydrat), amlodipin 5 mg (dưới dạng amlodipin besilat).
Lisonorm forte Mỗi viên: Lisinopril 20 mg (dưới dạng lisinopril dihydrat), amlodipin 10 mg (dưới dạng amlodipin besilat).
Các thành phần khác
Lisonorm: Cellulose vi tinh thể, magnesi stearat, tinh bột natri glycolat (loại A).
Lisonorm forte: Cellulose vi tinh thể (Loại 12 và loại 101), tinh bột natri glycolat (Loại A), magnesi stearat.
Mô tả sản phẩm
Lisonorm: Viên nén tròn, dẹt, có bờ cắt, màu trắng hoặc trắng nhờ, có rãnh bẻ trên một mặt, mặt kia có khắc chữ “A+L”. Đường kính 8 mm.
Đường rãnh bẻ giúp bẻ viên thuốc chỉ để uống dễ dàng hơn và không phải để chia viên thuốc thành hai liều dùng bằng nhau.
Lisonorm forte: Viên nén hình tròn, hai mặt lồi, màu trắng hoặc gần như trắng, trên một mặt có khắc chữ "CF3", mặt còn lại không khắc chữ, đường kính khoảng 11 mm.
Nhóm trị liệu: Thuốc ức chế men chuyển angiotensin và thuốc chẹn kênh calci.
Mã ATC: C09BB03.
Lisonorm là thuốc phối hợp liều cố định từ hai hoạt chất là lisinopril và amlodipin.
Liên quan đến lisinopril
Cơ chế tác dụng
Lisinopril là thuốc ức chế men peptidyl dipeptidase. Thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACE), men này xúc tác sự chuyển đổi angiotensin I thành một peptid gây co mạch là angiotensin II. Angiotensin II cũng kích thích vỏ thượng thận bài tiết aldosteron. Ức chế men chuyển angiotensin dẫn đến làm giảm nồng độ angiotensin II, kết quả là gây giảm hoạt tính co mạch và giảm tiết aldosteron. Việc giảm tiết aldosteron có thể dẫn đến tăng nồng độ kali huyết thanh.
Tác dụng dược lực
Trong khi cơ chế hạ huyết áp của lisinopril chủ yếu được cho là do ức chế hệ renin-angiotensin-aldosteron, lisinopril còn có tác dụng điều trị tăng huyết áp trên cả những bệnh nhân tăng huyết áp có mức renin thấp. Men chuyển angiotensin, hoặc kininase II, là một enzym giáng hóa bradykinin. Mặc dù có tác dụng làm tăng nồng độ bradykinin, là một peptid gây giãn mạch mạch, vẫn cần đánh giá vai trò của tác dụng này trong tác dụng điều trị của lisinopril.
Tính an toàn và hiệu quả lâm sàng
Ảnh hưởng của lisinopril đến tử suất và tỷ lệ mắc suy tim đã được nghiên cứu thông qua việc so sánh giữa liều cao (32,5 mg hoặc 35 mg, một lần mỗi ngày) với liều thấp (2,5 mg hoặc 5 mg, một lần mỗi ngày). Trong một nghiên cứu trên 3.164 bệnh nhân, với thời gian theo dõi trung vị 46 tháng đối với bệnh nhân còn sống, lisinopril liều cao làm giảm 12% nguy cơ của tiêu chí đánh giá kết hợp tử vong do mọi nguyên nhân và tỷ lệ nhập viện do mọi nguyên nhân (p=0,002) và giảm 8% nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân và nhập viện do bệnh tim mạch (p=0,036) so với khi dùng liều thấp. Giảm nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân (8%; p=0,128) và tử vong do các bệnh tim mạch (10%; p=0,073) đã được ghi nhận. Trong một phân tích hậu kiểm, số lượng bệnh nhân nhập viện do suy tim giảm 24% (p=0,002) ở nhóm bệnh nhân điều trị bằng lisinopril liều cao so với nhóm bệnh nhân dùng liều thấp. Những lợi ích trên triệu chứng bệnh ở nhóm bệnh nhân dùng lisinopril liều cao và nhóm dùng lisinopril liều thấp là tương tự nhau.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy các biến cố bất lợi tổng thể trên bệnh nhân điều trị bằng lisinopril liều cao hoặc liều thấp là tương tự nhau cả về bản chất và số lượng. Các biến cố có thể dự đoán được do tác dụng ức chế men chuyển, như hạ huyết áp hoặc thay đổi chức năng thận, có thể kiểm soát được và hiếm khi phải ngừng điều trị. Ho ít gặp hơn ở những bệnh nhân được điều trị với lisinopril liều cao so với liều thấp.
Trong thử nghiệm GISSi-3, sử dụng thiết kế giai thừa 2x2 để so sánh tác dụng của lisinopril và glyceryl trinitrat dùng đơn độc hoặc kết hợp trong 6 tuần so với nhóm chứng trên 19.394 bệnh nhân là những người đã được điều trị trong 24 giờ về tình trạng nhồi máu cơ tim cấp, lisinopril đã làm giảm 11% nguy cơ tử vong có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (2p=0,03). Glyceryl trinitrat không làm giảm nguy cơ một cách có ý nghĩa, nhưng khi kết hợp lisinopril và glyceryl trinitrat lại làm giảm có ý nghĩa nguy cơ tử vong 17% so với nhóm chứng (2p=0,02). Trong phân nhóm bệnh nhân cao tuổi (> 70 tuổi) và nữ giới, được xác định trước là các bệnh nhân có nguy cơ tử vong cao, lợi ích đáng kể đã được ghi nhận đối với các tiêu chí đánh giá kết hợp tỷ lệ tử vong và chức năng tim. Tiêu chí đánh giá kết hợp đối với tất cả các bệnh nhân cũng như các phân nhóm có nguy cơ cao, vào tháng thứ 6 cũng cho thấy lợi ích đáng kể khi điều trị bằng lisinopril hoặc lisinopril kết hợp glyceryl trinitrat trong 6 tuần, điều này cho thấy tác dụng dự phòng của lisinopril. Tương tự như khi điều trị bằng bất cứ thuốc giãn mạch nào, sự gia tăng biến cố hạ huyết áp và rối loạn chức năng thận có liên quan đến điều trị bằng lisinopril nhưng những biến cố này không tương quan với sự gia tăng tử suất.
Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi, đa trung tâm, so sánh lisinopril với một thuốc chẹn kênh calci trên 335 bệnh nhân tăng huyết áp đái tháo đường típ 2 mới mắc bệnh thận đặc trưng bởi albumin niệu vi lượng, sử dụng lisinopril 10 mg đến 20 mg 1 lần/ngày trong 12 tháng, đã làm giảm 13/10 mmHg huyết áp tâm thu/huyết áp tâm trương và giảm 40% mức độ thải trừ albumin niệu. Khi so sánh với thuốc chẹn kênh calci, là thuốc cũng làm giảm huyết áp tương tự, các bệnh nhân được điều trị bằng lisinopril có mức độ thải trừ albumin niệu giảm hơn đáng kể, điều này cung cấp bằng chứng về tác dụng ức chế men chuyển của lisinopril làm giảm albumin niệu vi lượng theo cơ chế trực tiếp trên mô thận bên cạnh tác dụng hạ huyết áp.
Điều trị bằng lisinopril không ảnh hưởng đến việc kiểm soát đường huyết, thể hiện qua tác động không đáng kể lên nồng độ hemoglobin glycat hóa (HbA1c).
Các thuốc tác động trên hệ renin-angiotensin (RAS)
Hai thử nghiệm lâm sàng lớn được thiết kế ngẫu nhiên, có đối chứng (ONTARGET (ONgoing Telmisartan Alone and in combination with Ramipril Gloabal Endpoint Trial) và VA NEPHRON-D (The Veterans Affairs Nephropathy in Diabetes)) đã đánh giá phác đồ phối hợp một thuốc ức chế men chuyển với một thuốc chẹn thụ thể angiotensin II.
ONTARGET là nghiên cứu được thực hiện trên bệnh nhân có tiền sử bệnh tim mạch, hoặc bệnh mạch máu não, hoặc đái tháo đường típ 2 có bằng chứng tổn thương cơ quan đích.
VA NEPHRON-D là nghiên cứu trên bệnh nhân đái tháo dường típ 2 và bệnh thận do đái tháo đường. Hai nghiên cứu này cho thấy không có sự cải thiện đáng kể đối với kết cục thận và/hoặc tim mạch cũng như tỷ lệ tử vong, trong khi lại ghi nhận tăng nguy cơ tăng kali máu, tổn thương thận cấp và/hoặc hạ huyết áp khi so với phác đồ đơn trị.
Do tính tương tự về đặc tính dược lực học, những kết quả này cũng phù hợp với các thuốc ức chế men chuyển và thuốc chẹn thụ thể angiotensin II khác.
Do đó, không nên sử dụng đồng thời thuốc ức chế men chuyển và thuốc chẹn thụ thể angiotensin II trên các bệnh nhân mắc bệnh thận do đái tháo đường.
ALTITUDE (Aliskiren Trial in Type 2 Diabetes Using Cardiovascular and Renal Disease Enpoints) là nghiên cứu được thiết kế để đánh giá lợi ích của việc thêm aliskiren vào phác đồ điều trị chuẩn gồm một thuốc ức chế men chuyển hoặc một thuốc chẹn thụ thể angiotensin II trên các bệnh nhân đái tháo típ 2 và bệnh thận mạn, bệnh tim mạch, hoặc cả hai. Nghiên cứu này bị ngừng sớm do tăng nguy cơ gặp kết cục bất lợi. Đột quỵ và tử vong do nguyên nhân tim mạch thường gặp hơn ở nhóm sử dụng aliskiren so với nhóm sử dụng giả dược và các biến cố bất lợi và biến cố bất lợi nghiêm trọng được quan tâm (tăng kali máu, hạ huyết áp và rối loạn chức năng thận) cũng được báo cáo với tần suất cao hơn ở nhóm aliskiren so với nhóm giả dược.
Quần thể bệnh nhi
Trong một nghiên cứu lâm sàng trên 115 bệnh nhi tăng huyết áp độ tuổi từ 6 đến 16 tuổi, các bệnh nhi cân nặng dưới 50 kg được sử dụng lisinopril liều 0,625 mg, 2,5 mg hoặc 20 mg, một lần mỗi ngày, và các bệnh nhi cân nặng từ 50 kg trở lên được sử dụng lisinopril liều 1,25 mg, 5 mg hoặc 40 mg, một lần mỗi ngày. Sau 2 tuần, lisinopril dùng một lần mỗi ngày đã hạ được huyết áp đáy phụ thuộc liều dùng với hiệu quả chống tăng huyết áp ổn định đã được chứng minh ở các mức liều lớn hơn 1,25 mg.
Tác dụng này đã được khẳng định ở pha thử nghiệm ngưng dùng thuốc, khi đó huyết áp tâm trương đã tăng thêm nhiều hơn khoảng 9 mmHg ở nhóm bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào nhóm dùng giả dược so với nhóm bệnh nhân tiếp tục sử dụng liều lisinopril cao và trung bình. Tác dụng điều trị tăng huyết áp phụ thuộc liều của lisinopril được duy trì ổn định giữa các phân nhóm nhân chủng học khác nhau như: tuổi, giai đoạn Tanner, giới tính và chủng tộc.
Liên quan đến amlodipin
Amlodipin là một thuốc ức chế kênh calci thuộc nhóm dihydropyridin (chẹn kênh calci chậm hoặc đối kháng ion calci) có tác dụng ức chế dòng ion calci đi vào cơ tim và cơ trơn mạch máu. Cơ chế điều trị tăng huyết áp của amlodipin là do tác dụng làm giãn cơ trơn mạch máu trực tiếp. Cơ chế chính xác liên quan đến tác dụng làm giảm đau thắt ngực của amlodipin chưa được xác định đầy đủ, tuy nhiên amlodipin làm giảm gánh nặng tổng thể của tình trạng thiếu máu cục bộ nhờ hai tác động sau đây:
- Amlodipin làm giãn các tiểu động mạch ngoại vi và do đó, làm giảm sức cản mạch ngoại vi toàn phần (hậu gánh) là yếu tố gây cản trở hoạt động của tim. Do nhịp tim vẫn duy trì ổn định, sự giảm tải này sẽ làm giảm sự tiêu thụ năng lượng và giảm nhu cầu oxy của cơ tim.
- Cơ chế tác dụng của amlodipin cũng có khả năng liên quan đến giãn các động mạch vành chính và các tiểu động mạch vành, ở cả vùng bình thường và vùng thiếu máu cục bộ. Sự giãn mạch sẽ làm tăng cung cấp oxy cho cơ tim ở các bệnh nhân bị co thắt động mạch vành (đau thắt ngực kiểu Prinzmetal hoặc đau thắt ngực biến thể).
Trên bệnh nhân tăng huyết áp, liều một lần mỗi ngày đã làm giảm huyết áp có ý nghĩa lâm sàng ở cả tư thế nằm ngửa và tư thế đứng trong suốt 24 giờ. Do khởi phát tác dụng chậm, hạ huyết áp cấp không phải là đặc trưng của việc sử dụng amlodipin.
Trên bệnh nhân đau thắt ngực, liều amlodipin một lần mỗi ngày làm tăng tổng thời gian gắng sức, thời gian trì hoãn sự khởi phát cơn đau thắt ngực, và khoảng thời gian cho đến khi ST chênh xuống 1 mm, làm giảm tần suất cơn đau thắt ngực và giảm nhu cầu sử dụng viên nén glyceryl trinitrat.
Amlodipin không gây tác dụng bất lợi trên chuyển hóa hoặc những thay đổi lipid huyết tương và thích hợp sử dụng cho các bệnh nhân hen, đái tháo đường, bệnh gút.
Suy tim
Các nghiên cứu huyết động và thử nghiệm lâm sàng có đối chứng dựa trên tiêu chí gắng sức ở bệnh nhân suy tim độ II-IV theo phân loại NYHA cho thấy amlodipin không làm nặng thêm tình trạng lâm sàng bằng cách đánh giá khả năng dung nạp gắng sức, phân suất tống máu thất trái và triệu chứng lâm sàng.
Một nghiên cứu đối chứng với giả dược (nghiên cứu PRAISE) được thiết kế để đánh giá bệnh nhân suy tim độ III-IV theo phân loại NYHA sử dụng digoxin, thuốc lợi tiểu và thuốc ức chế men chuyển cho thấy amlodipin không làm tăng nguy cơ tử vong hoặc tiêu chí kết hợp giữa tử vong và bệnh suất ở bệnh nhân suy tim.
Trong một nghiên cứu theo dõi, dài hạn, có đối chứng giả dược (nghiên cứu PRAISE-2) với amlodipin trên bệnh nhân suy tim độ III và IV theo phân loại NYHA, không có triệu chứng lâm sàng hoặc dấu hiệu khách quan gợi ý có bệnh nền thiếu máu cục bộ, đang sử dụng với liều ổn định các thuốc ức chế men chuyển, digitalis và thuốc lợi tiểu, amlodipin không ảnh hưởng tỉ lệ tử vong chung do nguyên nhân tim mạch. Trên cùng quần thể bệnh nhân này, amlodipin có liên quan đến gia tăng các báo cáo về phù phổi.
Thử nghiệm về điều trị dự phòng ngừng tim (ALLHAT)
Nghiên cứu ALLHAT (Antihypertensive and Lipid-Lowering Treatment to Prevent Heart Attack Trial) là nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi đánh giá hiệu suất và tử suất được thực hiện để so sánh các phác đồ điều trị bằng thuốc mới hơn: amlodipin 2,5-10 mg/ngày (thuốc chẹn kênh calci) hoặc lisinopril 10-40 mg/ngày (thuốc ức chế men chuyển) là liệu pháp đầu tay, so sánh với thuốc lợi tiểu thiazid là chlorthalidon 12,5-25 mg/ngày ở bệnh nhân tăng huyết áp từ nhẹ đến trung bình.
Tổng cộng có 33.357 bệnh nhân tăng huyết áp độ tuổi ≥ 55 được phân nhóm ngẫu nhiên và theo dõi trong khoảng thời gian trung bình là 4,9 năm. Những bệnh nhân này có thêm ít nhất một yếu tố nguy cơ về bệnh mạch vành, bao gồm: tiền sử nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ trên 6 tháng trước khi tham gia nghiên cứu, hoặc có bệnh sử bệnh lý tim mạch do xơ vữa động mạch khác (51,5%), đái tháo đường típ 2 (36,1%), HDH-Cholesterol < 35 mg/dL (11,6%), phì đại thất trái được chẩn đoán bằng điện tâm đồ hoặc bằng siêu âm tim (20,9%), đang hút thuốc (21,9%). Tiêu chí nghiên cứu chính là tiêu chí kết hợp bao gồm bệnh mạch vành dẫn đến tử vong hoặc nhồi máu cơ tim không tử vong. Không có sự khác biệt đáng kể về tiêu chí chính giữa phác đồ amlodipin với phác đồ chlorthalidon; RR: 0,98 (khoảng tin cậy 95%: [0,90-1,07]; p=0,65). Trong các tiêu chí phụ, tỷ lệ suy tim (một thành phần của tiêu chí tim mạch kết hợp) ở nhóm dùng amlodipin cao hơn đáng kể so với nhóm dùng chlorthalidon (10,2% so với 7,7%, RR: 1,38, khoảng tin cậy 95%: [1,25-1,52]; p < 0,001). Tuy nhiên, không có khác biệt đáng kể về tử vong do mọi nguyên nhân giữa phác đồ amlodipin và phác đồ chlorthalidon (RR: 0,96, khoảng tin cậy 95%: [0,89-1,02]; p=0,02).
Quần thể bệnh nhi (6 tuổi hoặc lớn hơn)
Trong một nghiên cứu có sự tham gia của 268 bệnh nhi từ 6 đến 17 tuổi chủ yếu mắc tăng huyết áp thứ phát, so sánh amlodipin liều 2,5 mg và 5,0 mg với giả dược, đã cho thấy cả hai mức liều làm giảm huyết áp tâm thu nhiều hơn đáng kể so với giả dược. Khác biệt giữa hai mức liều không có ý nghĩa thống kê.
Ảnh hưởng dài hạn của amlodipin đến tăng trưởng, dậy thì và sự phát triển cơ thể chưa được nghiên cứu. Hiệu quả dài hạn của amlodipin khi sử dụng trong thời thơ ấu để làm giảm bệnh suất và tử suất liên quan đến tim mạch ở tuổi trưởng thành chưa được thiết lập.
Liên quan đến lisinopril
Lisinopril là thuốc ức chế men chuyển đường uống không chứa nhóm sulphydryl.
Hấp thu
Sau khi uống, nồng độ đỉnh lisinopril trong huyết thanh xuất hiện trong vòng khoảng 7 giờ, mặc dù có xu hướng đạt nồng độ đỉnh huyết thanh chậm hơn một chút trên các bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp. Dựa vào lượng thuốc tìm thấy trong nước tiểu, mức độ hấp thu trung bình của lisinopril khoảng 25%, với sự dao động giữa các bệnh nhân từ 6-60% trong khoảng liều nghiên cứu (5-80 mg). Sinh khả dụng tuyệt đối giảm khoảng 16% ở bệnh nhân suy tim. Sự hấp thu lisinopril không bị ảnh hưởng bởi thức ăn.
Phân bố
Lisinopril dường như không gắn kết với protein huyết thanh ngoại trừ gắn với men chuyển angiotensin lưu hành trong hệ tuần hoàn. Các nghiên cứu trên chuột cho thấy lisinopril ít qua hàng rào máu-não.
Thải trừ
Lisinopril không trải qua quá trình chuyển hóa và được thải trừ hoàn toàn dưới dạng không đổi qua nước tiểu. Với liều lặp lại, lisinopril có nửa đời tích lũy hiệu dụng là 12,6 giờ. Độ thanh thải của lisinopril trên người tình nguyện khỏe mạnh là khoảng 50 mL/phút. Nồng độ thuốc trong huyết thanh giảm có pha cuối kéo dài, điều này không liên quan đến việc tích lũy thuốc. Ở pha cuối này, thuốc có thể gắn bão hòa với men chuyển và không tỷ lệ với liều dùng.
Đặc tính dược động học trên các quần thể đặc biệt
- Suy gan:
Suy giảm chức năng gan ở bệnh nhân xơ gan dẫn đến giảm hấp thu lisinopril (khoảng 30%, được xác định thông qua lượng thuốc được tìm thấy trong nước tiểu) nhưng sự phơi nhiễm với thuốc gia tăng (khoảng 50%) so với ở người khỏe mạnh do giảm độ thanh thải.
- Suy thận:
Suy giảm chức năng thận làm giảm thải trừ lisinopril, thuốc được thải trừ qua thận, nhưng mức độ giảm này chỉ có ý nghĩa trên lâm sàng khi mức lọc cầu thận dưới 30 mL/phút. Trên bệnh nhân suy thận mức độ nhẹ đến trung bình (thanh thải creatinin từ 30 đến 80 mL/phút ), diện tích dưới đường cong hấp thu (AUC) trung bình chỉ tăng 13%, trong khi AUC trung bình tăng 4,5 lần đã được ghi nhận trên bệnh nhân suy thận nặng (độ thanh thải creatinin 5-30 mL/phút). Có thể loại bỏ lisinopril khỏi cơ thể bằng thẩm tách. Trong 4 giờ thẩm tách máu, nồng độ lisinopril trong huyết tương giảm trung bình 60%, với độ thanh thải qua thẩm tách từ 40 đến 55 mL/phút.
- Suy tim:
Những bệnh nhân suy tim có mức độ phơi nhiễm lisinopril lớn hơn so với người khỏe mạnh (AUC tăng trung bình 125%), nhưng dựa trên lượng lisinopril được tìm thấy trong nước tiểu, sự hấp thu giảm khoảng 16% so với người khỏe mạnh.
- Quần thể bệnh nhi:
Các thông số dược động học của lisinopril đã được nghiên cứu trên 29 bệnh nhi tăng huyết áp, độ tuổi từ 6-16, có mức lọc cầu thận > 30 mL/phút/1,73m2. Sau khi sử dụng liều từ 0,1 đến 0,2 mg/kg, nồng độ đỉnh của lisinopril trong huyết tương ở trạng thái ổn định xuất hiện trong vòng 6 giờ và mức độ hấp thu dựa trên lượng thuốc tìm thấy trong nước tiểu là khoảng 28%. Các giá trị này tương tự các giá trị có được trước đây trên người lớn.
Giá trị AUC và Cmax ở trẻ em trong nghiên cứu này phù hợp với các giá trị đã được ghi nhận trước đây ở người lớn.
- Người cao tuổi:
Bệnh nhân cao tuổi có nồng độ thuốc trong máu cao hơn và diện tích dưới đường cong biểu diễn nồng độ thuốc trong huyết tương theo thời gian lớn hơn (tăng khoảng 60%) so với các đối tượng trẻ tuổi hơn.
Liên quan đến amlodipin
Hấp thu, phân bố và gắn với protein huyết tương
Sau khi uống các liều điều trị, amlodipin được hấp thu tốt, nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt được trong khoảng 6-12 giờ sau khi dùng thuốc. Sinh khả dụng tuyệt đối được ước tính từ từ 64 đến 80%. Thể tích phân bố khoảng 21 L/kg. Các nghiên cứu in vitro cho thấy khoảng 97,5% amlodipin lưu hành trong tuần hoàn gắn với protein huyết tương.
Sinh khả dụng của amlodipin không bị ảnh hưởng bởi thức ăn.
Sinh chuyển hóa và thải trừ
Nửa đời thải trừ pha cuối trong huyết tương của amlodipin là khoảng 35-50 giờ và phù hợp với liều một lần mỗi ngày. Amlodipin được chuyển hóa phần lớn ở gan thành các chất chuyển hóa không có hoạt tính với 10% thuốc chưa chuyển hóa và 60% các chất chuyển hóa được bài xuất qua nước tiểu.
Đặc tính dược động học trên các quần thể đặc biệt
- Suy gan:
Dữ liệu lâm sàng cho việc sử dụng amlodipin trên bệnh nhân suy gan còn rất hạn chế. Những bệnh nhân suy gan có độ thanh thải amlodipin giảm dẫn đến nửa đời kéo dài hơn và tăng AUC khoảng 40-60%.
- Người cao tuổi:
Thời gian để đạt nồng độ đỉnh trong huyết tương của amlodipin ở người cao tuổi tương đương với trẻ. Độ thanh thải của amlodipin có xu hướng giảm, dẫn tới tăng AUC và tăng nửa đời thải trừ ở bệnh nhân cao tuổi.
Sự tăng AUC và nửa đời thải trừ ở những bệnh nhân suy tim sung huyết là phù hợp với nhóm tuổi của bệnh nhân nghiên cứu.
- Quần thể bệnh nhi:
Một nghiên cứu dược động học quần thể đã được thực hiện trên 74 bệnh nhi tăng huyết áp độ từ 1 đến 17 tuổi (trong đó có 34 bệnh nhi từ 6 đến 12 tuổi, và 28 bệnh nhi từ 13 đến 17 tuổi) sử dụng amlodipin với mức liều từ 1,25-20 mg, dùng một lần hoặc hai lần mỗi ngày. Trên trẻ em từ 6 đến 12 tuổi và thanh thiếu niên từ 13 đến 17 tuổi, độ thanh thải đường uống (CL/F) ở trẻ nam lần lượt là 22,5 L/giờ và 27,4 L/giờ và ở trẻ nữ lần lượt là 16,4 L/giờ và 21,3 L/giờ. Đã ghi nhận sự dao động lớn giữa các bệnh nhi về mức độ phơi nhiễm. Dữ liệu về sử dụng thuốc ở trẻ em dưới 6 tuổi còn hạn chế.
Liên quan đến Lisonorm/Lisonorm Forte
Không có tương tác dược động học được ghi nhận giữa các hoạt chất của Lisonorm/Lisonorm Forte. Các thông số dược động học (AUC, Cmax, tmax, nửa đời) không khác biệt so với các thông số được ghi nhận sau khi dùng từng thành phần riêng rẽ.
Sự hấp thu qua đường tiêu hóa của Lisonorm/Lisonorm Forte không bị ảnh hưởng bởi thức ăn.
Các nghiên cứu tiền lâm sàng chưa được thực hiện trên dạng kết hợp của lisinopril-amlodipin.
Liên quan đến lisinopril
Dữ liệu tiền lâm sàng cho thấy thuốc không có nguy hại đặc biệt đối với con người dựa trên các nghiên cứu quy ước về dược lý tổng quát, độc tính với liều lặp lại, độc tính trên gen và khả năng gây ung thư.
Thuốc ức chế men chuyển đã cho thấy là nhóm thuốc gây ra các ảnh hưởng bất lợi trên sự phát triển giai đoạn muộn của thai nhi, dẫn đến chết thai và các ảnh hưởng bẩm sinh, đặc biệt ảnh hưởng đến hộp sọ. Độc tính trên bào thai, chậm phát triển trong tử cung và còn ống động mạch cũng đã được báo cáo. Những bất thường về sự phát triển này một phần được cho là do tác dụng trực tiếp của các thuốc ức chế men chuyển trên hệ renin-angiotensin của thai nhi, và một phần do thiếu máu cục bộ gây ra bởi việc hạ huyết áp của người mẹ và việc giảm lưu lượng máu nuôi dưỡng nhau thai-bào thai cũng như giảm chất dinh dưỡng và oxy cung cấp cho thai.
Liên quan đến amlodipin
Độc tính trên sinh sản
Các nghiên cứu về khả năng sinh sản trên chuột cống và chuột nhắt cho thấy chậm ngày sinh, kéo dài thời gian chuyển dạ và giảm khả năng sống sót ở con non ở mức liều lớn hơn khoảng 50 lần so với liều tối đa được khuyến cáo cho con người tính theo mg/kg.
Suy giảm khả năng sinh sản
Không có ảnh hưởng lên khả năng sinh sản đối với chuột cống được sử dụng amlodipin (giống đực dùng trong 64 ngày, và giống cái dùng trong 14 ngày trước khi giao phối) với liều lên đến 10 mg/kg/ngày (lớn hơn gấp 8 lần* so với liều tối đa được khuyến cáo cho người là 10 mg/ngày tính theo mg/m2). Trong một nghiên cứu khác ở chuột cống đực được sử dụng amlodipin besilat trong vòng 30 ngày với mức liều tương đương với liều dùng cho người tính theo mg/kg, đã ghi nhận sự giảm nồng độ trong huyết tương của hormon kích thích nang trứng và testosteron cũng như giảm mật độ tinh trùng, giảm số lượng tinh trùng trưởng thành và tế bào Sertoli.
Khả năng gây ung thư, đột biến gen
Chuột cống và chuột nhắt được sử dụng amlodipin trong chế độ ăn trong vòng 2 năm, ở nồng độ được tính toán để đảm bảo cung cấp mức liều hằng ngày là 0,5, 1,25 và 2,5 mg/kg/ngày, không cho thấy bằng chứng về khả năng gây ung thư. Liều cao nhất (cho chuột nhắt, là tương đương, và cho chuột cống là gấp 2 lần* so với liều tối đa được khuyến cáo trên lâm sàng là 10 mg/ngày tính theo mg/m2) gần với liều tối đa được dung nạp ở chuột nhắt, nhưng không phải cho chuột cống.
Các nghiên cứu về đột biến gen không cho thấy tác dụng nào liên quan đến thuốc kể cả ở mức độ gen hay nhiễm sắc thể.
* Tính theo cân nặng bệnh nhân là 50 kg.
Điều trị tăng huyết áp vô căn ở người lớn.
Trị liệu thay thế cho bệnh nhân trưởng thành có huyết áp được kiểm soát đầy đủ bằng lisinopril và amlodipin dùng đồng thời ở mức liều tương đương.
Liều dùng
Liều khuyến cáo là 1 viên mỗi ngày. Liều tối đa là 1 viên mỗi ngày. Nhìn chung, các chế phẩm phối hợp với liều cố định không thích hợp cho điều trị khởi đầu.
Lisinorm chỉ được chỉ định ở bệnh nhân với liều duy trì tối ưu là 10 mg lisinopril và 5 mg amlodipin sau khi chuẩn độ liều.
Lisonorm forte chỉ được chỉ định cho những bệnh nhân mà liều duy trì tối ưu của lisinopril và amlodipin đã được hiệu chỉnh ở 20 mg lisinopril và 10 mg amlodipin.
Nếu cần thay đổi liều dùng, có thể cân nhắc chỉnh liều với từng thành phần riêng rẽ.
Quần thể đặc biệt
Bệnh nhân suy giảm chức năng thận
Để tìm được liều khởi đầu và liều duy trì tối ưu cho người bệnh suy thận, nên chỉnh liều trên từng bệnh nhân với các chế phẩm đơn thành phần lisinopril và amlodipin.
Cần theo dõi chức năng thận, nồng độ kali và nồng độ natri huyết thanh trong quá trình điều trị bằng Lisonorm/Lisonorm Forte. Khi chức năng thận suy giảm, cần ngừng dùng Lisonorm/Lisonorm Forte và thay thế bằng các thuốc đơn thành phần với liều dùng được hiệu chỉnh phù hợp. Amlodipin không thể thẩm phân được.
Bệnh nhân suy giảm chức năng gan
Các khuyến cáo về liều dùng chưa được thiết lập cho bệnh nhân suy gan mức độ nhẹ đến trung bình; do đó, cần thận trọng khi lựa chọn liều và nên bắt đầu với liều giới hạn dưới của khoảng liều (xem mục Cảnh báo và thận trọng và Dược động học). Để xác định liều khởi đầu và liều duy trì tối ưu cho bệnh nhân suy giảm chức năng gan, cần hiệu chỉnh liều cho từng bệnh nhân bằng cách sử dụng lisinopril và amlodipin đơn thành phần.
Dược động học của amlodipin chưa được nghiên cứu ở bệnh nhân suy gan nặng. Amlodipin cần được bắt đầu với liều thấp nhất và chỉnh liều từ từ ở bệnh nhân suy gan nặng.
Quần thể bệnh nhi (dưới 18 tuổi)
Không khuyến cáo dùng Lisonorm cho người dưới 18 tuổi do chưa đủ dữ liệu về độ an toàn và hiệu lực của thuốc cho đối tượng này.
Người cao tuổi (trên 65 tuổi)
Cần thận trọng khi điều trị cho người bệnh cao tuổi.
Trong các nghiên cứu lâm sàng, không thấy có thay đổi về hiệu lực và độ an toàn của amlodipin hoặc lisinopril liên quan tới tuổi. Để xác định liều khởi đầu và liều duy trì tối ưu cho bệnh nhân cao tuổi, cần hiệu chỉnh liều cho từng bệnh nhân bằng cách sử dụng lisinopril và amlodipin đơn thành phần.
Cách dùng
Dùng đường uống.
Do thức ăn không ảnh hưởng đến sự hấp thu thuốc, có thể sử dụng Lisonorm/Lisonorm Forte vào bất kỳ thời điểm nào so với bữa ăn, ví dụ như trước, trong hoặc sau bữa ăn.
Liên quan đến lisinopril
- Quá mẫn cảm với lisinopril hoặc bất kỳ thuốc ức chế men chuyển (ACE) nào khác.
- Tiền sử phù mạch liên quan đến điều trị bằng các thuốc ức chê 1men chuyển trước đâu.
- Phù mạch do di truyền hoặc tự phát
- Phụ nữ có thai ở ba tháng giữa hoặc ba tháng cuối của thai kỳ (xem mục Cảnh báo và thận trọng và Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú)
- Dùng đồng thời Lisonorm/Lisonorm Forte với các thuốc chứa aliskiren ở bệnh nhân đái tháo đường hay bệnh nhân suy giảm chức năng thận (mức lọc cầu thận GFR < 60 mL/phút/1,73 m2) (xem mục Tương tác và Dược lực học).
- Dùng đồng thời với sacubitril/valsartan. Không được bắt đầu uống Lisonorm/Lisonorm Forte sớm hơn 36 giờ kể từ sau khi dùng liều cuối cùng của sacubitrul/valsartan (xem mục Cảnh báo và thận trọng và Tương tác).
Liên quan đến amlodipin
- Quá mẫn với amlodipin hoặc bất kỳ dẫn xuất nào khác của dihydropyridin.
- Hạ huyết áp nặng.
- Sốc (bao gồm sốc tim).
- Suy tim có huyết động không ổn định sau nhồi máu cơ tim cấp.
Liên quan đến Lisonorm/Lisonorm Forte
Tất cả các chống chỉ định liên quan đến mỗi đơn thành phần nêu trên cũng được áp dụng cho chế phẩm phối hợp với liều cố định Lisonorm/Lisonorm Forte.
- Quá mẫn với bất kỳ thành phần tá dược nảo của thuốc được liệt kê tại mục Mô tả.
Tất cả mọi cảnh báo với từng đơn thành phần được mô tả dưới đây cũng được áp dụng cho chế phẩm phối hợp với liều cố định Lisonorm/Lisonorm Forte
Liên quan đến lisinopril
Hạ huyết áp triệu chứng
Hiếm gặp hạ huyết áp triệu chứng ở những bệnh nhân tăng huyết áp không biến chứng. Với những bệnh nhân tăng huyết áp dùng lisinopril, hạ huyết áp có thể xảy ra nếu bệnh nhân bị thiếu hụt thể tích ví dụ do dùng thuốc lợi tiểu, chế độ ăn hạn chế muối, lọc máu, tiêu chảy hoặc nôn mửa, hoặc bị tăng huyết áp phụ thuộc renin nặng (Tương tác và Tác dụng không mong muốn).
Ở bệnh nhân suy tim có hoặc không kèm suy thận, đã có quan sát thấy hạ huyết áp triệu chứng. Điều này có khả năng nhiều nhất xảy ra ở những bệnh nhân có mức độ suy tim nặng hơn, như là hệ quả của việc sử dụng liều cao thuốc lợi tiểu quai, hạ natri máu, hoặc suy chức năng thận. Với những bệnh nhân có nguy cơ hạ huyết áp triệu chứng, cần theo dõi chặt chẽ việc khởi trị và điều chỉnh liều. Lưu ý tương tự với những bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ hoặc bệnh mạch máu não mà khi hạ huyết áp quá mức có thể dẫn tới nhồi máu cơ tim hoặc tai biến mạch máu não.
Nếu xảy ra hạ huyết áp, cần đặt bệnh nhân ở tư thế nằm ngửa và nếu cần thì truyền tĩnh mạch dung dịch muối thông thường. Một phản ứng hạ huyết áp thoáng qua không phải là chống chỉ định cho những liều tiếp theo, có thể cho bệnh nhân dùng những liều tiếp theo mà không có trở ngại gì một khi tăng thể tích và huyết áp đã tăng lên.
Ở một số bệnh nhân suy tim có huyết áp bình thường hay thấp, tình trạng hạ huyết áp hệ thống hơn nữa có thể xảy với lisinopril. Hiệu ứng này có thể dự đoán được và thường không phải là lý do để ngừng điều trị. Nếu hạ huyết áp trở nên có triệu chứng, có thể cần giảm liều hoặc ngưng dùng lisinopril.
Hạ huyết áp trong nhồi máu cơ tim cấp
Điều trị với lisinopril không được khởi đầu trên những bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp mà có nguy cơ bị rối loạn huyết động học trầm trọng hơn sau khi điều trị với thuốc giãn mạch. Đây là những bệnh nhân có huyết áp tâm thu ≤ 100 mmHg hoặc người bị sốc tim. Trong vòng ba ngày đầu tiên sau nhồi máu cơ tim, nên giảm liều nếu huyết áp tâm thu ≤ 120 mmHg. Cần giảm liều duy trì xuống 5 mg hoặc tạm thời xuống 2,5 mg nếu huyết áp tâm thu ≤ 100 mmHg. Nếu hạ huyết áp kéo dài (huyết áp tâm thu dưới 90 mmHg kéo dài hơn 1 giờ) phải ngưng dùng lisinopril.
Người bệnh hẹp động mạch chủ và van hai lá/ bệnh cơ tim phì đại
Giống như các thuốc ức chế men chuyển khác, cần thận trọng sử dụng lisinopril với những người bệnh bị hẹp van hai lá và tắc nghẽn đường ra của thất trái như hẹp động mạch chủ hoặc bệnh cơ tim phì đại.
Suy chức năng thận
Trong trường hợp suy thận (độ thanh thải creatinin < 80 mL/phút), liều dùng lisinopril ban đầu được điều chỉnh theo độ thanh thải creatinin của bệnh nhân, và sau đó là theo khả năng đáp ứng điều trị của bệnh nhân. Nồng độ kali huyết và creatinin cần được giám sát thường xuyên trong thực hành y khoa thông thường ở những bệnh nhân này.
Với những bệnh nhân suy tim, hạ huyết áp, sau liều đầu của thuốc ức chế men chuyển có thể dẫn tới tình trạng tổn thương chức năng thận nặng thêm. Suy thận cấp, thường là có thể hồi phục, đã được ghi nhận trong trường hợp này.
Ở một số bệnh nhân bị hẹp động mạch thận hai bên hoặc hẹp động mạch thận của thận chức năng đơn độc, được điều trị với thuốc ức chế men chuyển, người ta ghi nhận có sự tăng ure huyết và creatinin huyết thanh, thường sẽ hồi phục khi ngừng điều trị. Điều này đặc biệt có khả năng xảy ra ở bệnh nhân suy thận. Nếu tăng huyết áp do hẹp động mạch thận cũng hiện diện thì sẽ tăng nguy cơ tụt huyết áp nặng và suy thận. Ở những bệnh nhân này, nên được khởi trị ở liều thấp dưới sự giám sát chặt chẽ và điều chỉnh liều cẩn thận. Vì việc điều trị với các thuốc lợi tiểu có thể là một yếu tố góp phần gây ra tình trạng nói trên, nên ngừng dùng thuốc lợi tiểu và theo dõi chức năng thận trong những tuần đầu tiên điều trị với lisinopril.
Một số bệnh nhân tăng huyết áp không có bệnh mạch thận rõ ràng từ trước đã xuất hiện tăng urê máu và creatinin huyết thanh, thường là nhẹ và thoáng qua, đặc biệt là khi dùng đồng thời lisinopril với thuốc lợi tiểu. Điều này thường có khả năng xảy ra hơn ở bệnh nhân đang bị suy thận trước đó. Có thể cần giảm liều và/hoặc ngưng thuốc lợi tiểu và/hoặc lisinopril.
Trong nhồi máu cơ tim cấp tính, không nên điều trị khởi đầu với lisinopril ở bệnh nhân có bằng chứng rối loạn chức năng thận, nghĩa là nồng độ creatinin huyết thanh vượt quá 177 micromol/L và/hoặc protein niệu vượt quá 500 mg/24 giờ. Nếu rối loạn chức năng thận tiến triển trong suốt quá trình điều trị với lisinopril (nồng độ creatinin huyết thanh vượt quá 265 micromol/L hay gấp đôi so với trị số trước khi điều trị) thì nên xem xét đến việc ngưng dùng lisinopril.
Quá mẫn, phù mạch
Hiếm gặp quá mẫn, phù mạch ở mặt, môi, lưỡi, thanh môn và/hoặc thanh quản ở những bệnh nhân được điều trị với thuốc ức chế men chuyển, kể cả lisinopril. Điều đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong suốt thời gian điều trị. Trong trường hợp này, cần ngưng dùng lisinopril ngay lập tức và tiến hành theo dõi và điều trị thích hợp để đảm bảo rằng các triệu chứng được giải quyết hoàn toàn trước khi cho bệnh nhân xuất viện. Ngay cả trong trường hợp chỉ sưng lưỡi, không có suy hô hấp, bệnh nhân cần được tiếp tục theo dõi bởi vì việc điều trị bằng kháng histamin và corticoid có thể là chưa đủ.
Rất hiếm báo cáo về các ca tử vong do phù mạch có liên quan đến phù thanh quản hoặc phù nề lưỡi. Những bệnh nhân có bệnh lý liên quan đến lưỡi, thanh môn, hoặc thanh quản có khả năng bị tắc nghẽn đường thở khi điều trị, đặc biệt là những bệnh nhân có tiền sử phẫu thuật đường thở. Trong trường hợp này, điều trị cấp cứu cần được tiến hành nhanh chóng. Trường hợp này có thể sử dụng adrenalin và/hoặc duy trì thông thoáng đường hô hấp. Cần theo dõi bệnh nhân cẩn thận cho đến khi triệu chứng được giải quyết hoàn toàn và ổn định.
Thuốc ức chế men chuyển gây phù mạch ở người da đen với tỷ lệ cao hơn ở người có màu da khác.
Những bệnh nhân có tiền sử phù mạch không do sử dụng thuốc ức chế men chuyển có thể tăng nguy cơ bị phù mạch khi dùng thuốc ức chế men chuyển (Chống chỉ định).
Chống chỉ định sử dụng kết hợp thuốc ức chế men chuyển với sacubitril/valsartan do tăng nguy cơ phù mạch. Không được bắt đầu sử dụng sacubitril/valsartan sớm hơn 36 giờ kể từ khi sử dụng liều lisinopril cuối cùng. Lisinopril không được bắt đầu sử dụng sớm hơn 36 giờ kể từ khi sử dụng liều sacubitril/valsartan cuối cùng (xem mục Chống chỉ định và Tương tác).
Sử dụng đồng thời thuốc ức chế men chuyển với các thuốc ức chế đích của rapamycin ở động vật có vú - mTOR (ví dụ: sirolimus, everolimus, temsirolimus) và vildagliptin có thể làm tăng nguy cơ phù mạch (ví dụ: sưng đường thở hoặc lưỡi, có hoặc không có suy hô hấp) (xem mục Tương tác). Cần thận trọng khi bắt đầu sử dụng racecadotril, thuốc ức chế mTOR và vildagliptin trên bệnh nhân đang sử dụng thuốc ức chế men chuyển.
Phản ứng phản vệ ở người bệnh đang được thẩm tách máu
Đã gặp sốc phản vệ ở người bệnh được điều trị bằng thuốc ức chế men chuyển trong thời gian thẩm tách máu bằng màng polyacrylonitrile (ví dụ AN 69). Vì vậy, cần tránh kết hợp trị liệu này và có thể lựa chọn, hoặc dùng một loại màng thẩm tách khác, hoặc dùng một loại thuốc chống tăng huyết áp khác.
Phản ứng phản vệ trong quá trình gạn tách lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL)
Hiếm khi gặp phản ứng phản vệ đe dọa tính mạng ở bệnh nhân được điều trị bằng thuốc ức chế men chuyển trong thời gian gạn tách LDL-cholesterol bằng dextran sulphate. Có thể tránh được các phản ứng này bằng cách tạm thời ngừng dùng thuốc ức chế men chuyển trước mỗi lần gạn tách.
Giải mẫn cảm
Đôi khi xảy ra phản ứng phản vệ ở người bệnh dùng thuốc ức chế men chuyển trong thời gian giải mẫn cảm nọc của bọ cánh màng (ví dụ nọc độc loài Hymenoptera). Cũng ở những bệnh nhân này, các phản ứng này đã không xảy ra khi tạm ngưng thuốc ức chế men chuyển, nhưng đã xuất hiện lại khi vô tình sử dụng thuốc trở lại.
Suy gan:
Rất hiếm gặp ở người bệnh được dùng thuốc ức chế men chuyển có các triệu chứng như vàng da, ứ mật hoặc viêm gan và hoại tử tiến triển đột ngột và (đôi khi) tử vong. Cơ chế của triệu chứng này chưa được hiểu rõ. Bệnh nhân nào dùng lisinopril mà có triệu chứng vàng da hoặc tăng enzym gan rõ rệt cần ngừng dùng lisinopril và theo dõi y tế.
Giảm bạch cầu/mất bạch cầu hạt
Rất hiếm gặp báo cáo về giảm bạch cầu trung tính, mất bạch cầu hạt, giảm tiểu cầu và thiếu máu ở những bệnh nhân dùng thuốc ức chế men chuyển. Ở những bệnh nhân có chức năng thận bình thường và không có yếu tố phức tạp khác, giảm bạch cầu trung tính hiếm khi xảy ra. Tình trạng giảm bạch cầu trung tính và mất bạch cầu hạt có thể hồi phục khi dừng thuốc ức chế men chuyển.
Cần hết sức thận trọng khi dùng lisinopril cho các bệnh nhân bị bệnh collagen mạch máu, điều trị miễn dịch, điều trị bằng allopurinol hoặc procainamide, hay có sự kết hợp các yếu tố phức tạp này, nhất là bệnh nhân đang bị suy giảm chức năng thận. Một số bệnh nhân này có thể bị nhiễm trùng nghiêm trọng, mà trong một vài trường hợp kháng sinh mạnh cũng không đáp ứng điều trị. Nếu sử dụng lisinopril ở những bệnh nhân này, cần theo dõi định kỳ số lượng bạch cầu và cần hướng dẫn bệnh nhân báo cáo bất kỳ dấu hiệu nào của nhiễm trùng.
Phong tỏa kép hệ thống renin-angiotensin-aldosteron (RAAS)
Có bằng chứng cho thấy việc sử dụng đồng thời thuốc ức chế men chuyển, thuốc ức chế thụ thể angiotensin II, hoặc aliskiren làm tăng nguy cơ hạ huyết áp, tăng kali máu và suy giảm chức năng thận (bao gồm suy thận cấp). Do đó không khuyến cáo phong tỏa kép hệ RAA thông qua việc sử dụng kết hợp thuốc ức chế men chuyển, thuốc ức chế thụ thể angiotensin II, hoặc aliskiren (xem mục Tương tác và Dược lực học).
Nếu cân nhắc thật sự cần thiết liệu pháp phong tỏa kép, phải có chuyên gia giám sát và kiểm tra thường xuyên chức năng thận, điện giải, và huyết áp.
Không nên dùng chung thuốc ức chế men chuyển và thuốc ức chế thụ thể angiotensin II ở những bệnh nhân mắc bệnh thận do đái tháo đường.
Chủng tộc
Thuốc ức chế men chuyển gây phù mạch ở người da đen với tỷ lệ cao hơn ở người có màu da khác.
Cũng như các thuốc ức chế men chuyển khác, lisinopril có thể ít hiệu quả hạ áp hơn ở bệnh nhân da đen so với người có màu da khác, có thể là do những người da đen bị huyết áp cao thường có renin thấp.
Ho
Ho đã được báo cáo khi dùng thuốc ức chế men chuyển. Đặc điểm chung là ho không tiến triển nhưng dai dẳng và khỏi ho khi ngừng điều trị. Ho do thuốc ức chế men chuyển cần được coi là một phần của chẩn đoán phân biệt về ho.
Phẫu thuật/gây mê
Ở người bệnh phải qua đại phẫu hoặc trong thời gian gây mê bằng chất gây mê có khả năng bị hạ huyết áp, lisinopril có thể ức chế sự tạo thành angiotensin II thứ phát do sự phóng thích renin bù trừ. Nếu nghi ngờ hạ áp xảy ra theo cơ chế này, có thể khắc phục bằng cách bù dịch.
Tăng kali huyết
Các thuốc ức chế men chuyển có thể làm tăng kali máu do ức chế giải phóng aldosteron. Tác dụng này thường không đáng kể ở bệnh nhân có chức năng thận bình thường. Tuy nhiên, tăng kali máu có thể xảy ra ở bệnh nhân có chức năng thận suy giảm, đái tháo đường, và/hoặc ở bệnh nhân đang sử dụng các chế phẩm bổ sung kali (bao gồm các chế phẩm muối chứa kali), các thuốc lợi tiểu giữ kali (như spironolacton, triamteren hoặc amilorid), hoặc những bệnh nhân sử dụng các loại thuốc khác có thể làm tăng kali huyết thanh (như heparin, trimetoprim hoặc dạng phối hợp co-trimoxazol còn được biết là trimethoprim/sulfamethoxazol) và đặc biệt là các chất đối kháng aldosteron hoặc chất phong bế thụ thể angiotensin trên những bệnh nhân đang điều trị bằng thuốc ức chế men chuyển. Nếu phải sửdụng đồng thời các thuốc trên, khuyến cáo theo dõi thường xuyên nồng độ kali huyết thanh và chức năng thận (xem mục Tương tác).
Bệnh nhân đái tháo đường
Ở những bệnh nhân đái tháo đường điều trị bằng thuốc uống hoặc insulin, cần kiểm tra đường huyết thường xuyên trong suốt tháng đầu tiên điều trị với thuốc ức chế men chuyển (xem mục Tương tác).
Lithium
Không khuyến cáo dùng lithium đồng thời với các thuốc ức chế men chuyển (xem mục Tương tác).
Phụ nữ mang thai và nuôi con bú
Không nên tiến hành điều trị bằng thuốc ức chế men chuyển trong khi mang thai. Trừ khi việc tiếp tục điều trị với thuốc ức chế men chuyển được coi là thực sự cần thiết, bệnh nhân dự định mang thai cần được chuyển sang liệu pháp điều trị tăng huyết áp khác đã có dữ liệu chứng minh là an toàn trong thời kỳ mang thai. Khi được chẩn đoán có thai, cần dừng ngay việc điều trị bằng thuốc ƯCMC, và nếu thích hợp, nên bắt đầu liệu pháp thay thế (xem mục Chống chỉ định và Sử dụng thuốc ở phụ nữ mang thai và cho con bú).
Không khuyến cáo dùng lisinopril trong thời kỳ cho con bú.
Liên quan đến amlodipin
Hiệu quả và tính an toàn của amlodipin trong cơn tăng huyết áp chưa được xác định.
Bệnh nhân suy tim
Bệnh nhân suy tim cần được điều trị một cách thận trọng. Trong một nghiên cứu dài hạn, đối chứng với giả dược trên bệnh nhân suy tim nặng (NYHA độ III và IV), tỷ lệ phù phổi được báo cáo cao hơn ở nhóm sử dụng amlodipin so với nhóm dùng giả dược (xem mục Dược lực học).
Cần sử dụng thận trọng các thuốc chẹn kênh calci, bao gồm amlodipin, cho những bệnh nhân suy tim sung huyết, vì thuốc có thể gây tăng nguy cơ tai biến tim mạch và tỷ lệ tử vong trong tương lai.
Sử dụng ở bệnh nhân suy chức năng gan
Thời gian bán thải của amlodipin kéo dài và giá trị AUC cao hơn ở bệnh nhân suy chức năng gan và chưa xác định được các khuyến cáo về liều dùng. Amlodipin nên được khởi đầu với liều thấp nhất trong khoảng liều khuyến cáo và thận trọng khi sử dụng, cả khi bắt đầu điều trị và khi tăng liều. Cần chỉnh liều từ từ và theo dõi cẩn thận ở bệnh nhân suy gan nặng.
Sử dụng ở bệnh nhân cao tuổi
Với người cao tuổi, cần cẩn thận khi tăng liều (xem mục Liều lượng và cách dùng và Dược động học).
Sử dụng ở bệnh nhân suy thận
Amlodipin có thể được sử dụng với liều bình thường trên những bệnh nhân này. Những thay đổi về nồng độ amlodipin huyết tương không liên quan với mức độ suy thận. Amlodipin không thể thẩm phân được.
Liên quan đến Lisonorm Forte
Thuốc này chứa dưới 1 mmol natri (23 mg) trong mỗi viên nén, có thể coi thuốc này gần như "không chứa natri".
Ảnh hưởng của thuốc lên khả năng lái xe và vận hành máy
Lisonorm có thể ảnh hưởng lên khả năng lái xe và vận hành máy móc (nhất là vào thời gian đầu điều trị).
Liên quan đến lisinopril
Khi lái xe hoặc vận hành máy móc, cần lưu ý khả năng chóng mặt hay mệt mỏi đôi khi xảy ra.
Liên quan đến amlodipin
Amlodipin có thể ảnh hưởng ít hoặc tương đối tới khả năng lái xe và vận hành máy móc. Những bệnh nhân bị chóng mặt, đau đầu, mệt mỏi hay buồn nôn, có thể bị giảm khả năng phản ứng. Khuyến cáo cần thận trọng đặc biệt khi bắt đầu điều trị.
Sử dụng thuốc cho phụ nữ có thai
Việc sử dụng Lisonorm không được khuyến cáo trong ba tháng đầu của thai kỳ và chống chỉ định trong suốt quý hai và quý ba của thai kỳ.
Chưa có kinh nghiệm sử dụng lisinopril và amlodipin ở phụ nữ mang thai từ các nghiên cứu lâm sàng được kiểm chứng đầy đủ. Tuy nhiên, việc sử dụng cả hai hoạt chất trong thời kỳ mang thai là không được khuyến cáo hoặc có chống chỉ định (cho riêng từng thành phần cụ thể, xin xem bên dưới)
Nếu chẩn đoán có thai, cần ngừng dùng Lisonorm ngay và, nếu thích hợp, nên bắt đầu liệu pháp thay thế nếu thích hợp (xem mục Cảnh báo và thận trọng).
Không nên tiến hành điều trị với Lisonorm trong suốt thai kỳ. Trừ khi việc tiếp tục điều trị với Lisonorm là thực sự cần thiết, bệnh nhân dự định mang thai cần chuyển sang liệu pháp điều trị tăng huyết áp thay thế đã được chứng minh là an toàn để sử dụng trong thai kỳ.
Liên quan đến lisinopril
Việc sử dụng thuốc ức chế men chuyển không được khuyến cáo trong ba tháng đầu của thai kỳ.
Chống chỉ định thuốc ức chế men chuyển vào quý hai và quý ba của thai kỳ.
Bằng chứng dịch tễ học liên quan tới nguy cơ gây quái thai khi phơi nhiễm thuốc ức chế men chuyển trong 3 tháng đầu của thai kỳ chưa được kết luận; tuy nhiên, không thể loại trừ khả năng tăng nguy cơ nhẹ. Trừ khi việc điều trị với thuốc ức chế men chuyển được cân nhắc là thực sự cần thiết, bệnh nhân dự định mang thai cần chuyển sang liệu pháp điều trị tăng huyết áp khác đã được chứng minh là an toàn để sử dụng trong thai kỳ. Nếu chẩn đoán có thai, cần ngừng ngay việc dùng thuốc ức chế men chuyển, và, nếu thích hợp, nên bắt đầu với liệu pháp thay thế.
Việc phơi nhiễm với thuốc ức chế men chuyển trong quý hai và quý ba của thai kỳ được biết là gây độc cho bào thai người (giảm chức năng thận, ít nước ối, chậm cốt hoá sọ) và độc với trẻ sơ sinh (suy thận, hạ huyết áp, tăng kali huyết) (xem mục An toàn tiền lâm sàng).
Nếu có phơi nhiễm với thuốc ức chế men chuyển từ quý hai của thai kỳ, thai phụ cần được khuyến cáo siêu âm kiểm tra chức năng thận và xương sọ.
Trẻ sơ sinh có mẹ đã từng sử dụng thuốc ức chế men chuyển cần được theo dõi chặt chẽ về tình trạng hạ huyết áp (xem mục Chống chỉ định và Cảnh báo và thận trọng).
Liên quan đến amlodipin
Tính an toàn của việc sử dụng amlodipin trong thai kỳ ở người chưa được xác lập.
Trong nghiên cứu trên động vật, độc tính trên sự sinh sản được ghi nhận ở liều cao (xem mục An toàn tiền lâm sàng).
Sử dụng thuốc trong thời kỳ mang thai chỉ được khuyến cáo khi không có thuốc thay thế an toàn hơn và khi bản thân tình trạng bệnh đem lại nguy cơ cao hơn cho người mẹ và thai nhi.
Thời kỳ cho con bú
Do chưa có thông tin về việc sử dụng lisinopril trong thời kỳ cho con bú. Amlodipin được bài xuất vào sữa mẹ. Tỷ lệ liều của mẹ mà trẻ nhỏ có thể nhận được ước lượng với khoảng tứ phân vị là 3-7%, với giá trị cao nhất là 15%. Ảnh hưởng của amlodipin trên trẻ nhỏ chưa được biết rõ.
Không khuyến cáo sử dụng Lisonorm/Lisonorm Forte, và nên dùng liệu pháp điều trị thay thế an toàn hơn torng thời kỳ cho con bú, đặc bie65tla2 khi đang cho trẻ sơ sinh hoặc trẻ sinh thiếu tháng bú sữa mẹ.
Khả năng sinh sản
Không có kinh nghiệm từ các nghiên cứu lâm sàng được kiểm soát đầy đủ về tác động của lisinopril và amlodipin lên khả năng sinh sản.
Liên quan đến amlodipin
Những thay đổi sinh hóa thuận nghịch ở phần đầu của tinh trùng đã được báo cáo ở các bệnh nhân sử dụng thuốc chẹn kênh calci. Hiện chưa có đầy đủ dữ liệu lâm sàng về tác động tiềm tàng của amlodipin trên khả năng sinh sản. Trong một nghiên cứu trên chuột, tác dụng bất lợi trên khả năng sinh sản của chuột đực đã được phát hiện (xem mục An toàn tiền lâm sàng).
Tương tác liên quan tới lisinopril
Thuốc điều trị tăng huyết áp
Khi sử dụng lisinopril kết hợp với các thuốc điều trị tăng huyết áp khác (như glyceryl trinitrat, các nitrat khác hoặc các thuốc giãn mạch khác) có thể xảy ra tăng tác dụng hạ huyết áp.
Các dữ liệu thử nghiệm lâm sàng cho thấy phong bế kép hệ renin-angiotensin-aldosteron (RAA) bằng cách sử dụng phối hợp các thuốc ức chế men chuyển, thuốc ức chế thụ thể angiotensin II, hoặc aliskiren liên quan tới tần suất bắt gặp các tác dụng phụ thường xuyên hơn như tụt huyết áp, tăng kali máu và suy giảm chức năng thận (bao gồm suy thận cấp) so với khi chỉ dùng một thuốc tác động lên hệ RAA (xem mục Chống chỉ định, Cảnh báo và thận trọng và Dược lực học).
Thuốc có thể làm tăng nguy cơ phù mạch
Chống chỉ định sử dụng kết hợp thuốc ức chế men chuyển với sacubitril/valsartan do điều này làm tăng nguy cơ phù mạch (xem mục Chống chỉ định và Cảnh báo và thận trọng).
Sử dụng đồng thời thuốc ức chế men chuyển với các thuốc ức chế đích của rapamycin ở động vật có vú - mTOR (ví dụ temsirolimus, sirolimus, everolimus) hoặc thuốc ức chế endopeptidase trung tính (NEP) (ví dụ racecadotril) hoặc chất hoạt hóa plasminogen mô hoặc vildagliptin có thể làm tăng nguy cơ phù mạch (xem mục Cảnh báo và thận trọng).
Thuốc lợi tiểu
Khi thêm một thuốc lợi tiểu vào phác đồ điều trị của bệnh nhân đang sử dụng lisinopril, tác dụng điều trị tăng huyết áp thường được cộng thêm. Bệnh nhân đang dùng thuốc lợi tiểu và đặc biệt là những bệnh nhân mới bắt đầu dùng thuốc lợi tiểu, có thể đôi khi bị tụt huyết áp quá mức khi dùng thêm lisinopril. Khả năng bị hạ huyết áp triệu chứng với lisinopril có thể được giảm thiểu bằng cách ngưng thuốc lợi tiểu trước khi bắt đầu điều trị với lisinopril (xem mục Cảnh báo và thận trọng và Liều lượng và cách dùng).
Chế phẩm bổ sung kali, thuốc lợi tiểu giữ kali hoặc các chế phẩm muối chứa kali và các thuốc khác có thể làm tăng nồng độ kali huyết thanh
Mặc dù trong các thử nghiệm lâm sàng kali huyết thường nằm trong giới hạn bình thường, nhưng đã gặp tăng kali huyết ở một vài bệnh nhân. Yếu tố nguy cơ tăng kali huyết bao gồm suy thận, đái tháo đường, hay sử dụng đồng thời các thuốc lợi tiểu giữ kali (như spironolactone, triamterene hoặc amiloride), bổ sung kali hoặc các chất thay thế muối ăn có chứa kali. Việc sử dụng chất bổ sung kali, thuốc lợi tiểu giữ kali hay các chất thay thế muối ăn có chứa kali, đặc biệt ở những bệnh nhân suy giảm chức năng thận có thể dẫn tới sự gia tăng đáng kể kali huyết thanh. Cần thận trọng khi sử dụng lisinopril đồng thời với các thuốc có chể làm tăng nồng độ kali huyết thanh như trimethoprim và co-trimoxazol (trimethoprim/sulfamethoxazol) vì trimethoprim đã được biết là hoạt động như một thuốc lợi tiểu giữ kali như amilorid. Do đó, không khuyến cáo sử dụng kết hợp lisinopril với các thuốc được đề cập ở trên. Nếu sự kết hợp được chỉ định, cần thận trọng sử dụng và theo dõi nồng độ kali huyết thanh thường xuyên (xem mục Cảnh báo và thận trọng).
Ciclosporin: Sử dụng đồng thời thuốc ức chế men chuyển với ciclosporin có thể xảy ra tăng kali máu. Khuyến cáo theo dõi nồng độ kali huyết thanh.
Heparin: Sử dụng đồng thời thuốc ức chế men chuyển với heparin có thể xảy ra tăng kali máu. Khuyến cáo theo dõi nồng độ kali huyết thanh.
Nếu sử dụng đồng thời lisinopril với thuốc lợi tiểu mất kali, tình trạng hạ kali máu do thuốc lợi tiểu gây ra có thể được cải thiện.
Lithium
Sự gia tăng nồng độ lithium huyết thanh và độc tính có thể hồi phục đã được báo cáo khi dùng đồng thời lithium và thuốc ức chế men chuyển. Sử dụng đồng thời thuốc lợi tiểu thiazide có thể làm tăng độc tính lithium và làm tăng thêm độc tính lithium sẵn có với thuốc ức chế men chuyển. Việc sử dụng lisinopril với lithium không được khuyến cáo, nhưng nếu sự kết hợp là cần thiết, cần kiểm soát chặt chẽ nồng độ lithium huyết thanh.
Thuốc chống viêm không steroid (NSAID) bao gồm acid acetylsalicylic ≥ 3 g/ngày
Khi sử dụng đồng thời các thuốc ức chế men chuyển với các thuốc chống viêm không steroid (như acid acetylsalicylic với liều chống viêm, các thuốc ức chế COX-2 và các NSAID không chọn lọc), hiệu quả điều trị tăng huyết áp có thể giảm. Dùng đồng thời thuốc ức chế men chuyển và NSAID có thể dẫn đến tăng nguy cơ làm suy giảm chức năng thận, bao gồm cả suy thận cấp, và tăng kali huyết thanh, đặc biệt trên những bệnh nhân có suy giảm chức năng thận từ trước. Các tác dụng này thường có thể hồi phục. Cần thận trọng khi sử dụng phối hợp, đặc biệt ở người cao tuổi. Bệnh nhân cần được bù nước đầy đủ và theo dõi chức năng thận sau khi bắt đầu điều trị bằng phác đồ phối hợp cũng như theo dõi định kỳ sau đó.
Vàng
Phản ứng nitrioid (triệu chứng giãn mạch bao gồm đỏ bừng, buồn nôn, chóng mặt, hạ huyết áp, mà có thể rất nặng) sau khi tiêm vàng (ví dụ natri aurothiomalate) được báo cáo gặp phải thường xuyên hơn ở bệnh nhân dùng thuốc ức chế men chuyển
Thuốc chống trầm cảm ba vòng/ thuốc chống loạn thần/ thuốc gây mê
Sử dụng đồng thời các thuốc chống trầm cảm ba vòng, thuốc chống loạn thần, thuốc gây mê với thuốc ức chế men chuyển có thể tăng thêm tác dụng hạ huyết áp của thuốc ức chế men chuyển (xem mục Cảnh báo và Thận trọng).
Thuốc cường giao cảm
Thuốc cường giao cảm có thể làm giảm tác dụng hạ huyết áp của thuốc ức chế men chuyển.
Thuốc điều trị đái tháo đường
Các nghiên cứu dịch tễ gợi ý rằng việc dùng đồng thời thuốc ức chế men chuyển và các thuốc điều trị đái tháo đường (insulin, thuốc hạ đường huyết đường uống) có thể làm tăng tác dụng hạ đường huyết dẫn đến nguy cơ tụt đường huyết. Hiện tượng này có nhiều khả năng xảy ra trong những tuần đầu của điều trị kết hợp và ở bệnh nhân suy thận.
Acid salicylic, các thuốc tiêu huyết khối, chẹn beta giao cảm, nitrat
Lisinopril có thể dùng đồng thời với acid salicylic (ở liều tác dụng trên tim mạch), các thuốc tiêu huyết khối, chẹn beta giao cảm và/hoặc các nitrat.
Tương tác liên quan tới amlodipin
Ảnh hưởng của các thuốc khác lên amlodipin
Các chất ức chế CYP3A4
Sử dụng đồng thời amlodipin với các thuốc ức chế CYP3A4 vừa hoặc mạnh (thuốc ức chế protease, thuốc kháng nấm nhóm azole, kháng sinh nhóm macrolide như erythromycin hoặc clarithromycin, verapamil hoặc diltiazem) có thể làm tăng đáng kể sự phơi nhiễm với amlodipin dẫn đến tăng nguy cơ hạ huyết áp. Sự thay đổi về mặt lâm sàng của những tham số dược động học này có thể rõ rệt hơn ở người già. Theo dõi lâm sàng và điều chỉnh liều do đó có thể là cần thiết.
Clarithromycin là chất ức chế CYP3A4. Nguy cơ hạ huyết áp tăng lên ở bệnh nhân dùng clarithromycin dùng amlodipin. Khuyến cáo theo dõi chặt chẽ bệnh nhân khi sử dụng kết hợp amlodipin với clarithromycin.
Các chất cảm ứng CYP3A4
Khi sử dụng cùng với các tác nhân cảm ứng CYP3A4, nồng độ amlodipin trong huyết tương có thể thay đổi. Do đó, cần theo dõi huyết áp và cân nhắc hiệu chỉnh liều cả trong và sau khi dùng đồng thời, đặc biệt là các tác nhân cảm ứng CYP3A4 mạnh (ví dụ rifampicin, Hypericum perforatum).
Không khuyến cáo sử dụng amlodipin cùng với bưởi chùm hoặc nước ép bưởi chùm vì có thể làm tăng sinh khả dụng dẫn đến tăng tác dụng hạ huyết áp.
Dantrolene (tiêm truyền)
Ở động vật, rung thất gây tử vong và trụy tim mạch đã được ghi nhận có liên quan đến tăng kali huyết sau khi sử dụng verapamil và dantrolene truyền tĩnh mạch. Do nguy cơ tăng kali máu, khuyến cáo tránh dùng đồng thời thuốc chẹn kênh calci như amlodipin cho những bệnh nhân nhạy cảm với chứng sốt cao ác tính và trong liệu trình kiểm soát chứng sốt cao ác tính.
Ảnh hưởng của amlodipin trên các thuốc khác
Tác dụng hạ huyết áp của amlodipin sẽ cộng thêm tác dụng hạ huyết áp của các thuốc khác cũng có đặc tính điều trị tăng huyết áp.
Trong các nghiên cứu lâm sàng về tương tác thuốc, amlodipin không ảnh hưởng đến dược động học của atorvastatin, digoxin, warfarin hoặc cyclosporine.
Tacrolimus
Có nguy cơ tăng nồng độ tacrolimus trong máu khi dùng đồng thời với amlodipin, tuy nhiên cơ chế dược động học của tương tác này chưa được xác định đầy đủ. Để tránh độc tính của tacrolimus, khi sử dụng amlodipin cho bệnh nhân đang điều trị với tacrolimus, phải theo dõi nồng độ tacrolimus trong máu và chỉnh liều tacrolimus cho phù hợp.
Các thuốc ức chế đích của rapamycin ở động vật có vú (mTOR)
Các chất ức chế mTOR như sirolimus, temsirolimus và everolimus là các cơ chất của CYP3A. Amlodipin là chất ức chế CYP3A yếu. Khi sử dụng cùng với các chất ức chế mTOR, amlodipin có thể làm tăng mức độ phơi nhiễm của các chất ức chế mTOR.
Ciclosporin
Chưa có nghiên cứu tương tác thuốc giữa ciclosporin và amlodipin trên người tình nguyện khỏe mạnh hoặc các quần thể khác ngoại trừ bệnh nhân ghép thận; ở các bệnh nhân ghép thận đã ghi nhận sự gia tăng nồng độ đáy của ciclosporin (trung bình 0%-40%). Cân nhắc việc theo dõi nồng độ ciclosporin trên bệnh nhân ghép thận đang sử dụng amlodipin, và giảm liều ciclosporin khi cần.
Simvastatin
Khi dùng đồng thời nhiều liều 10 mg amlodipin với 80 mg simvastatin dẫn đến tăng phơi nhiễm với simvastatin 77% so với dùng simvastatin đơn lẻ. Nên giới hạn liều simvastatin ở bệnh nhân sử dụng amlodipin xuống 20 mg/ngày.
Trong một nghiên cứu lâm sàng có kiểm chứng (n=195), tần suất gặp tác dụng phụ ở những người bệnh thuộc nhóm được điều trị với cả hai hoạt chất không cao hơn so với ở những người bệnh thuộc nhóm dùng một hoạt chất (đơn trị liệu). Các tác dụng phụ phù hợp với các tác dụng đã được báo cáo với amlodipin và/ hoặc lisinopril. Các tác dụng phụ thường nhẹ và thoáng qua, hiếm khi phải ngừng thuốc. Các tác dụng phụ thường gặp nhất là nhức đầu (8%), ho (5%), chóng mặt (3%).
Tần suất tác dụng phụ được định nghĩa như sau: Rất thường gặp (≥ 1/10); Thường gặp (≥ 1/100 < 1/10); Không thường gặp (≥ 1/1.000 < 1/100); Hiếm (≥ 1/10.000 < 1/1.000); Rất hiếm (< 1/10.000); Chưa biết (không đánh giá được trên cơ sở các dữ liệu hiện có).
Trong mỗi nhóm, các tác dụng không mong muốn được xắp xếp theo thứ tự giảm dần về mức nghiêm trọng.
Các tác dụng không mong muốn sau đây được báo cáo trong quá trình điều trị bằng lisinopril và amlodipin đơn độc:
- xem Bảng 1.

Dữ liệu về độ an toàn từ các nghiên cứu lâm sàng gợi ý rằng lisinopril nhìn chung được dung nạp tốt trên các bệnh nhi tăng huyết áp và dữ liệu về độ an toàn của thuốc trên nhóm bệnh nhân này là tương tự như ở người lớn.
Chưa có số liệu về quá liều khi dùng Lisonorm/Lisonorm Forte trên người, không sử dụng quá liều chỉ định của thuốc.
Liên quan đến quá liều lisinopril
Dữ liệu về quá liều ở người còn hạn chế. Các triệu chứng liên quan đến quá liều thuốc ức chế men chuyển có thể bao gồm hạ huyết áp, sốc tuần hoàn, rối loạn điện giải, suy thận, thở quá nhanh, tim nhanh, đánh trống ngực, nhịp tim chậm, chóng mặt, lo âu và ho.
Điều trị quá liều được khuyến cáo là truyền tĩnh mạch dung dịch muối thông thường. Nếu xảy ra hạ huyết áp, cần đặt bệnh nhân vào vị trí nằm ngửa với kê hai chân cao. Nếu có thể, cân nhắc tiêm truyền angiotensin II, và/hoặc cân nhắc truyền catecholamine. Nếu bệnh nhân vừa mới uống thuốc, sử dụng các biện pháp nhằm loại bỏ lisinopril ra ngoài (ví dụ gây nôn, rửa dạ dày, dùng các chất hấp thu và natri sulfat). Có thể loại lisinopril ra khỏi tuần hoàn hệ thống bằng phương pháp thẩm tách máu (xem mục Cảnh báo và thận trọng). Liệu pháp điều hòa nhịp tim được chỉ định điều trị nhịp tim chậm. Dấu hiệu sống, nồng độ điện giải và nồng độ creatinin huyết thanh cần được theo dõi thường xuyên.
Liên quan đến quá liều amlodipin
Kinh nghiệm về quá liều do cố ý ở người còn giới hạn.
Triệu chứng
Dữ liệu hiện có cho thấy quá liều tổng thể có thể dẫn đến giãn mạch ngoại vi quá mức và có thể dẫn tới nhịp tim nhanh phản xạ. Hạ huyết áp toàn thân rõ rệt và kéo dài, bao gồm cả sốc dẫn đến tử vong đã được báo cáo.
Điều trị quá liều
Hạ huyết áp đáng kể trên lâm sàng do quá liều amlodipin cần sự hỗ trợ tim mạch tích cực bao gồm giám sát thường xuyên chức năng tim và hô hấp, kê cao tứ chi và theo dõi thể tích dịch tuần hoàn và lượng nước tiểu.
Một chất co mạch có thể giúp phục hồi trương lực mạch máu và huyết áp với điều kiện không có chống chỉ định. Truyền tĩnh mạch calci gluconate có thể có ích giúp đảo ngược tác dụng chẹn kênh calci.
Rửa dạ dày đôi khi cũng có ích trong một số trường hợp. Ở người khỏe mạnh tình nguyện, việc sử dụng than hoạt 2 giờ sau khi dùng 10 mg amlodipin đã chứng minh làm giảm tỷ lệ hấp thu amlodipin.
Do amlodipin gắn kết mạnh với protein, thẩm phân hầu như không mang lại kết quả.
Liên quan đến Lisonorm/Lisonorm Forte
Quá liều Lisonorm có thể gây giãn mạch ngoại biên quá mức kèm theo hạ huyết áp rõ rệt, sốc tuần hoàn, rối loạn điện giải, suy thận, thở quá nhanh, nhịp tim nhanh, đánh trống ngực, nhịp tim chậm, chóng mặt, lo âu và ho. Cần điều trị triệu chứng (đặt người bệnh nằm ngửa, theo dõi - và nếu cần, hỗ trợ - chức năng tim và chức năng hô hấp, theo dõi huyết áp, cân bằng dịch/điện giải, và nồng độ creatinin). Nếu xảy ra hạ huyết áp trầm trọng, phải kê chân cao, và nếu truyền dịch không đem lại hiệu quả thích hợp, có thể điều trị hỗ trợ bằng cách sử dụng thêm các thuốc co mạch ngoại biên, trừ khi có chống chỉ định. Có thể cân nhắc truyền angiotensin II. Truyền dịch tĩnh mạch calci gluconate có thể có ích giúp đảo ngược tác dụng chẹn kênh calci.
Vì amlodipin được hấp thu chậm, rửa dạ dày có thể có ích trong một số trường hợp.
Có thể loại lisinopril ra khỏi tuần hoàn hệ thống bằng phương pháp thẩm tách máu. Cần tránh sử dụng màng polyacrylonitrile lưu lượng cao khi thẩm tách.
Bảo quản nơi khô ráo, dưới 30°C trong bao bì gốc, tránh ánh sáng.
Hạn dùng:
Lisonorm: 36 tháng kể từ ngày sản xuất.
Lisonorm Forte: 24 tháng kể từ ngày sản xuất.
C09BB03 - lisinopril and amlodipine ; Belongs to the class of ACE inhibitors and calcium channel blockers. Used in the treatment of cardiovascular diseases.
Lisonorm Forte Viên nén 20 mg/10 mg
3 × 10's
Lisonorm Viên nén 10 mg/5 mg
3 × 10's