Quảng cáo
Quảng cáo
Basaglar

Basaglar

insulin glargine

Nhà sản xuất:

Eli Lilly

Nhà phân phối:

Gigamed
Thông tin kê toa chi tiết tiếng Việt
Thành phần
Mỗi mL: Insulin glargine* 100 đơn vị (tương đương 3,64 mg).
* Insulin glargine được sản xuất bằng công nghệ tái tổ hợp DNA trên Escherichia coli.
Thành phần tá dược: Kẽm oxid, metacresol, glycerol, acid hydrochloric (để điều chỉnh pH), natri hydroxid (để điều chỉnh pH), nước pha tiêm.
Mô tả
Dung dịch tiêm trong bút tiêm đóng sẵn thuốc (Kwikpen).
Dung dịch trong, không màu, không có tiểu phân lạ.
Dược lực học
Nhóm dược lý điều trị: Thuốc dùng trong điều trị bệnh đái tháo đường, thuộc nhóm insulin và các chất tương tự để tiêm, tác dụng kéo dài. Mã ATC: A10AE04.
BASAGLAR là một thuốc sinh học tương tự.
Cơ chế tác dụng
Insulin glargine là một chất tương tự như insulin người, có cấu trúc để có độ hòa tan thấp ở pH trung tính. Chất này hòa tan hoàn toàn ở pH acid của dung dịch tiêm BASAGLAR (pH 4). Sau khi tiêm vào mô dưới da, dung dịch có tính acid được trung hòa dẫn đến sự hình thành các vi tủa từ đó liên tục phóng thích những lượng nhỏ insulin glargine giúp nồng độ thuốc ổn định theo thời gian, không có đỉnh, có thể đoán trước dữ liệu nồng độ/thời gian với thời gian tác động kéo dài.
Insulin glargine được chuyển hóa thành 2 chất chuyển hóa có hoạt tính M1 và M2 (xem phần Dược động học).
Khả năng gắn kết với thụ thể insulin
Các nghiên cứu in vitro cho thấy rằng ái lực của insulin glargine và các chất chuyển hóa của nó M1 và M2 đối với thụ thể insulin ở người tương tự như insulin của người.
Gắn kết thụ thể IGF-1: Ái lực của insulin glargine đối với thụ thể IGF-1 ở người cao hơn từ 5 đến 8 lần so với của insulin người (nhưng thấp hơn 70 đến 80 lần so với của IGF-1), trong khi M1 và M2 gắn với thụ thể IGF-1 với ái lực thấp hơn một chút so với insulin người.
Tổng nồng độ điều trị của insulin (insulin glargine và các chất chuyển hóa của nó) ở bệnh nhân đái tháo đường typ 1 thấp hơn đáng kể so với một nửa nhu cầu tối đa của thụ thể IGF-1 và sự kích hoạt sau đó của con đường tăng sinh - tạo phân bào khởi đầu bởi thụ thể IGF-1. Nồng độ sinh lý của IGF-1 nội sinh có thể kích hoạt con đường tăng sinh - tạo phân bào; tuy nhiên, nồng độ điều trị được tìm thấy trong liệu pháp insulin, bao gồm cả điều trị bằng BASAGLAR, thấp hơn đáng kể so với nồng độ dược lý cần để kích hoạt con đường IGF-1.
Các tác động dược lực học
Hoạt tính chính của insulin, gồm cả insulin glargine, là sự điều hòa chuyển hóa glucose. Insulin và các chất tương tự của nó làm hạ nồng độ glucose trong máu bằng cách kích thích sự thu nạp glucose ở ngoại biên, đặc biệt là ở cơ vân và mô mỡ, và bằng cách ức chế sự sản sinh glucose ở gan. Insulin ức chế sự ly giải lipid trong tế bào mỡ, ức chế tiêu protein và tăng tổng hợp protein.
Trong các nghiên cứu dược lý lâm sàng, tiêm tĩnh mạch insulin glargine và insulin người đã được chứng minh là có hoạt lực tương đương khi dùng liều như nhau. Cũng như tất cả các insulin khác, thời gian tác động của insulin glargine có thể bị ảnh hưởng bởi hoạt động thể lực và các biến số khác.
Trong các nghiên cứu kẹp giữ nồng độ glucose máu ở những người tình nguyện khỏe mạnh hoặc ở những bệnh nhân đái tháo đường typ 1, sự khởi phát tác dụng của insulin glargine dưới da chậm hơn so với insulin người NPH, tác động của thuốc trơn tru và không có đỉnh, và thời gian tác dụng kéo dài.
Hình dưới đây cho thấy kết quả từ một nghiên cứu trên bệnh nhân:
- xem Hình 1.

Image from Drug Label Content

Thời gian tác dụng dài hơn của insulin glargine dưới da liên quan trực tiếp đến tốc độ hấp thu chậm hơn và hỗ trợ cho việc dùng một lần mỗi ngày. Thời gian tác dụng của insulin và các chất tương tự insulin như insulin glargine có thể biến thiên đáng kể giữa những cá thể khác nhau hoặc trên cùng một cá thể.
Trong một nghiên cứu lâm sàng, các triệu chứng hạ đường huyết hoặc đáp ứng lại các phản ứng hormon tương tự nhau sau khi tiêm tĩnh mạch insulin glargine và insulin người ở cả người tình nguyện khoẻ mạnh và bệnh nhân đái tháo đường typ 1.
Tính an toàn và hiệu quả lâm sàng
Trong các nghiên cứu lâm sàng, các kháng thể phản ứng chéo với insulin người và insulin glargine đã được quan sát thấy với cùng tần suất ở cả hai nhóm điều trị bằng insulin NPH và insulin glargine.
Tác dụng của insulin glargine (ngày một lần) đối với bệnh võng mạc tiểu đường đã được đánh giá trong nghiên cứu nhãn mở 5 năm có kiểm chứng bằng NPH (NPH ngày hai lần) trên 1024 bệnh nhân đái tháo đường typ 2 bị bệnh võng mạc bằng 3 hay nhiều bước (≥ 3 bước) đánh giá theo thang điểm nghiên cứu điều trị sớm bệnh võng mạc do biến chứng đái tháo đường (ETDRS – Early Treatment Diabetic Retinopathy Study) bằng cách chụp đáy mắt. Không có sự khác biệt đáng kể về diễn tiến bệnh võng mạc đái tháo đường khi so sánh insulin glargine với insulin NPH.
Nghiên cứu ORIGIN - Kết quả giảm với sự can thiệp của khởi trị Glargine (Outcome Reduction with Initial Glargine Intervention) là một nghiên cứu đa trung tâm, ngẫu nhiên, 2x2 yếu tố được thực hiện trên 12.537 người có nguy cơ cao về tim mạch (CVG) có rối loạn đường huyết lúc đói (IFG) hoặc giảm dung nạp glucose (IGT) (12% số người tham gia) hoặc bệnh đái tháo đường typ 2 được điều trị ≤ 1 thuốc uống điều trị đái tháo đường (88% người tham gia). Những người tham gia được phân ngẫu nhiên (1:1) dùng insulin glargine (n = 6264), được điều chỉnh liều để đạt FPG ≤ 95 mg/dL (5,3 mM) hoặc chăm sóc tiêu chuẩn (n = 6273).
Đồng tiêu chí chính về kết cục hiệu quả là thời gian xuất hiện đầu tiên của tử vong do tim mạch, nhồi máu cơ tim không tử vong, hoặc đột quỵ không tử vong, và đồng tiêu chí phụ vềkết cục hiệu quả là thời điểm xảy ra đầu tiên của bất kỳ các biến cố chính, hoặc thủ thuật tái thông mạch máu (mạch vành, động mạch cảnh hoặc ngoại vi), hoặc nhập viện vì suy tim.
Các tiêu chí phụ bao gồm tử vong do mọi nguyên nhân và tiêu chí kết cục tổng hợp vi mạch.
Insulin glargine không làm thay đổi nguy cơ tương đối đối với bệnh tim mạch và tử vong do tim mạch so với chăm sóc tiêu chuẩn. Không có sự khác biệt giữa insulin glargine và chăm sóc tiêu chuẩn đối với hai đồng kết cục tiêu chí chính; đối với bất kỳ kết cục thành phần nào thuộc các kết quả này; đối với tử vong do mọi nguyên nhân; hoặc đối với tiêu chí kết cục tổng hợp vi mạch.
Liều lượng glargine trung bình vào cuối nghiên cứu là 0,42 U/kg. Ở lúc ban đầu, người tham gia có HbA1c trung vị là 6,4% và HbA1c trung vị trong khi điều trị dao động từ 5,9 đến 6,4% ở nhóm insulin glargine, và 6,2% đến 6,6% ở nhóm chăm sóc tiêu chuẩn trong suốt thời gian theo dõi. Tỷ lệ hạ đường huyết nặng (những người tham gia nghiên cứu bị hạ đường huyết/ 100 người tham gia- năm phơi nhiễm ) là 1,05 đối với nhóm dùng insulin glargine và 0,30 đối với nhóm chăm sóc tiêu chuẩn và tỷ lệ xác nhận hạ đường huyết không nặng là 7,71 đối với nhóm insulin glargine và 2,44 đối với nhóm chăm sóc tiêu chuẩn. Trong quá trình nghiên cứu 6 năm này, 42% nhóm insulin glargine không bị hạ đường huyết.
Lần thăm khám cuối cùng trong khi điều trị, có sự tăng trọng lượng cơ thể trung bình 1,4 kg ở nhóm insulin glargine và giảm trung bình 0,8 kg ở nhóm chăm sóc tiêu chuẩn.
Nhóm bệnh nhân nhi
Trong một nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên, có đối chứng, bệnh nhân nhi (độ tuổi từ 6 đến 15 tuổi) bị đái tháo đường typ 1 (n = 349) được điều trị trong 28 tuần với một chế độ insulin nền-bolus, sử dụng insulin người tác dụng ngắn trước mỗi bữa ăn. Insulin glargine được dùng một lần mỗi ngày trước khi đi ngủ và insulin NPH người được dùng một hoặc hai lần mỗi ngày. Ghi nhận các tác dụng tương tự đối với glycohaemoglobin (HbA1c) và tỷ lệ mới xuất hiện triệu chứng hạ đường huyết ở cả hai nhóm điều trị, tuy nhiên đường huyết lúc đói giảm nhiều hơn so với thời điểm ban đầu ở nhóm insulin glargine so với nhóm NPH. Ở nhóm insulin glargine cũng có ít trường hợp hạ đường huyết nặng hơn. Một trăm bốn mươi ba bệnh nhân được điều trị với insulin glargine trong nghiên cứu này tiếp tục điều trị bằng insulin glargine trong một nghiên cứu mở rộng không đối chứng với thời gian theo dõi trung bình là 2 năm. Không có dấu hiệu an toàn mới nào được nhận thấy trong quá trình điều trị kéo dài này bằng insulin glargine.
Một nghiên cứu chéo so sánh insulin glargine cộng với insulin lispro với NPH cộng với insulin người tác dụng ngắn (mỗi lần điều trị được thực hiện trong 16 tuần theo thứ tự ngẫu nhiên) ở 26 bệnh nhân đái tháo đường typ 1 vị thành niên tuổi từ 12 đến 18 đã được thực hiện. Như trong nghiên cứu ở trẻ em được mô tả ở trên, giảm đường huyết lúc đói ở người so với thời điểm ban đầu nhiều hơn ở nhóm insulin glargine so với nhóm NPH. Sự thay đổi HbA1c so với ban đầu tương tự nhau giữa các nhóm điều trị; tuy nhiên giá trị đường huyết ghi nhận qua đêm cao hơn đáng kể ở nhóm insulin glargine / lispro so với nhóm NPH / tác dụng ngắn, với mức thấp nhất trung bình là 5,4 mM so với 4,1 mM. Tương ứng, tỷ lệ bị hạ đường huyết mới mắc ban đêm là 32% ở nhóm insulin glargine / lispro so với 52% ở nhóm NPH / tác dụng ngắn.
Một nghiên cứu nhóm song song kéo dài 24 tuần được thực hiện ở 125 trẻ bị đái tháo đường typ 1 tuổi từ 2 đến 6, so sánh insulin glargine dùng một lần mỗi ngày vào buổi sáng với insulin NPH dùng một hoặc hai lần mỗi ngày như insulin nền. Cả hai nhóm đều nhận được insulin bolus trước bữa ăn. Mục đích chính của việc chứng minh insulin glargine không thua kém NPH trong tất cả các trường hợp hạ đường huyết không đạt được và insulin glargine có xu hướng gia tăng các biến cố hạ đường huyết [tỷ lệ insulin glargine: NPH (95% CI) = 1,18 (0,97- 1.44)]. Sự biến thiên về HbA1c và glucose tương đương nhau ở cả hai nhóm điều trị. Không có dấu hiệu an toàn mới nào được quan sát thấy trong thử nghiệm này.
Dược động học
Hấp thu
Ở những người khỏe mạnh và bệnh nhân đái tháo đường, nồng độ insulin huyết thanh chứng tỏ sự hấp thu chậm hơn và kéo dài hơn nhiều và cho thấy không có đỉnh sau khi tiêm insulin glargine dưới da so với insulin NPH người. Vì vậy, nồng độ phù hợp với hồ sơ hoạt tính dược lực học của insulin glargine theo thời gian. Hình 1 ở trên cho thấy dữ liệu hoạt động theo thời gian của insulin glargine và insulin NPH.
Insulin glargine tiêm một lần mỗi ngày sẽ đạt được trạng thái ổn định nồng độ trong vòng 2-4 ngày sau liều đầu tiên.
Biến đổi sinh học
Sau khi tiêm dưới da cho bệnh nhân đái tháo đường, insulin glargine được chuyển hóa nhanh ở đầu tận cùng gốc carboxyl của chuỗi Beta với sự hình thành hai chất chuyển hóa có hoạt tính M1 (21A-Gly-insulin) và M2 (21A-Gly-des-30B-Thr-insulin). Trong huyết tương, hợp chất tuần hoàn chính là chất chuyển hóa M1. Nồng độ M1 tăng lên theo liều insulin glargine sử dụng.
Các kết quả dược động học và dược lực học cho thấy tác dụng của tiêm dưới da insulin glargine chủ yếu dựa vào nồng độ M1. Insulin glargine và chất chuyển hóa M2 không thể phát hiện được ở đa số người dùng và, khi phát hiện được các chất này thì nồng độ của chúng không phụ thuộc vào liều insulin glargine được dùng.
Thải trừ
Khi tiêm tĩnh mạch, thời gian bán thải của insulin glargine và insulin người là tương đương nhau.
Nhóm dân số đặc biệt
Trong các nghiên cứu lâm sàng, các phân tích phân nhóm tuổi tác và giới tính không cho thấy sự khác biệt về tính an toàn và hiệu quả giữa những bệnh nhân được điều trị bằng insulin glargine so với nhóm bệnh nhân còn lại của nghiên cứu.
Nhóm bệnh nhân nhi
Dược động học ở trẻ từ 2 đến dưới 6 tuổi mắc đái tháo đường typ 1 được đánh giá trong một nghiên cứu lâm sàng (xem phần Dược lực học). Nồng độ đáy insulin glargine trong huyết tương và các chất chuyển hóa chính M1 và M2 đo được ở trẻ được điều trị bằng insulin glargine, cho thấy nồng độ huyết tương tương tự như người lớn và không có bằng chứng cho thấy có sự tích tụ insulin glargine hoặc các chất chuyển hóa của nó khi dùng lâu dài.
An toàn tiền lâm sàng
Các dữ liệu tiền lâm sàng cho thấy không có mối nguy hiểm đặc biệt đối với con người dựa trên các nghiên cứu thông thường về tính an toàn, độc tính liều lặp lại, độc tính trên gen, khả năng gây ung thư, độc tính trên hệ sinh sản.
Chỉ định/Công dụng
BASAGLAR được chỉ định điều trị đái tháo đường cho người lớn, trẻ vị thành niên và trẻ em từ 2 tuổi trở lên.
Liều dùng/Hướng dẫn sử dụng
Liều dùng
BASAGLAR chứa insulin glargine, chất tương tự insulin và có thời gian tác dụng kéo dài.
BASAGLAR nên được dùng một lần mỗi ngày vào bất kỳ lúc nào, nhưng cùng một thời điểm mỗi ngày.
Phác đồ điều trị BASAGLAR (liều và thời gian) nên được điều chỉnh theo từng bệnh nhân. Ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2, BASAGLAR cũng có thể được dùng cùng với các thuốc trị đái tháo đường dạng uống.
Hoạt lực của thuốc được thể hiện bằng đơn vị. Các đơn vị này chỉ dành riêng cho insulin glargine và không giống như đơn vị quốc tế (IU) hoặc các đơn vị dùng để biểu hiện hoạt lực của các chất tương tự insulin khác (xem phần Dược lực học).
Nhóm dân số đặc biệt
Bệnh nhân cao tuổi (≥ 65 tuổi)
Ở người cao tuổi, sự suy giảm liên tục của chức năng thận có thể dẫn đến giảm đều đặn nhu cầu insulin.
Suy thận
Ở những bệnh nhân suy thận, nhu cầu insulin có thể bị giảm do giảm chuyển hóa insulin.
Suy gan
Ở những bệnh nhân bị suy gan, nhu cầu insulin có thể bị giảm do giảm khả năng tân tạo glucose và giảm sự chuyển hóa insulin.
Nhóm bệnh nhân nhi
Trẻ vị thành niên và trẻ em từ 2 tuổi trở lên
Tính an toàn và hiệu quả của insulin glargine ở trẻ vị thành niên và trẻ em từ 2 tuổi trở lên đã được thiết lập (xem phần Dược lực học). Phác đồ điều trị BASAGLAR (liều và thời gian) nên được điều chỉnh theo từng bệnh nhân.
Trẻ em dưới 2 tuổi
Tính an toàn và hiệu quả của insulin glargine ở trẻ em dưới 2 tuổi chưa được thiết lập. Không có sẵn dữ liệu.
Chuyển từ insulin khác sang BASAGLAR
Khi thay đổi từ phác đồ điều trị với insulin tác dụng trung bình hoặc tác dụng kéo dài sang chế độ điều trị bằng BASAGLAR, cần phải thay đổi liều insulin nền và cần phải điều chỉnh các thuốc điều trị đái tháo đường dùng đồng thời (liều và thời gian thêm vào của các insulin tác dụng ngắn hoặc những thuốc tương tự insulin tác dụng nhanh hoặc liều các thuốc điều trị đái tháo đường dạng uống).
Chuyển từ insulin NPH sử dụng hai lần mỗi ngày sang BASAGLAR
Để giảm thiểu nguy cơ hạ đường huyết buổi sáng sớm và ban đêm, bệnh nhân thay đổi chế độ insulin nền từ insulin NPH hai lần mỗi ngày sang chế độ dùng BASAGLAR một lần mỗi ngày nên giảm liều insulin nền hàng ngày xuống 20-30% trong những tuần đầu điều trị.
Chuyển từ insulin glargine 300 đơn vị/mL sang BASAGLAR
BASAGLAR và Toujeo (insulin glargine 300 đơn vị/mL) không tương đương sinh học và không thể thay thế trực tiếp. Để giảm nguy cơ hạ đường huyết, bệnh nhân thay đổi chế độ insulin nền từ chế độ một lần mỗi ngày insulin glargine 300 đơn vị/mL sang chế độ một lần mỗi ngày với BASAGLAR nên giảm khoảng 20% liều insulin đang dùng.
Trong những tuần đầu tiên, việc giảm liều này ít nhất nên được bù đắp phần nào bằng cách tăng insulin vào giờ ăn, sau giai đoạn này, phác đồ điều trị cần được điều chỉnh theo từng bệnh nhân.
Khuyến cáo theo dõi chặt chẽ chuyển hóa trong suốt quá trình chuyển đổi và trong những tuần đầu sau đó. Với việc kiểm soát chuyển hóa được cải thiện và kết quả là tăng mức độ nhạy insulin, có thể cần điều chỉnh thêm chế độ liều. Cũng có thể cần phải điều chỉnh liều, ví dụ như bệnh nhân thay đổi cân nặng hoặc phong cách sống, thay đổi thời gian dùng insulin hoặc các tình huống khác xảy ra gây tăng nguy cơ hạ đường huyết hoặc tăng đường huyết (xem phần Cảnh báo và thận trọng).
Bệnh nhân phải dùng liều cao insulin do có kháng thể kháng insulin người có thể cải thiện đáp ứng insulin với BASAGLAR.
Cách dùng
BASAGLAR được chỉ định tiêm dưới da.
Không được tiêm tĩnh mạch BASAGLAR. Thời gian tác dụng kéo dài của insulin glargine phụ thuộc vào việc tiêm vào mô dưới da. Tiêm tĩnh mạch với liều dưới da thông thường có thể dẫn đến hạ đường huyết nặng.
Không có sự khác biệt lâm sàng về nồng độ insulin và đường huyết sau khi tiêm insulin glargine ở vùng bụng, vùng cơ delta hoặc vùng đùi. Vị trí tiêm phải được luân chuyển trong một vùng tiêm đã định giữa các lần tiêm.
Không được trộn lẫn BASAGLAR với bất kỳ loại insulin nào khác hoặc không được pha loãng thuốc. Trộn hoặc pha loãng có thể thay đổi dữ liệu thời gian /tác dụng của thuốc và sự pha trộn có thể gây ra kết tủa.
Để biết chi tiết hơn về thao tác, xem phần Thận trọng đặc biệt trong tiêu hủy và các thao tác khác.
Trước khi sử dụng dung dịch tiêm BASAGLAR trong bút tiêm đóng sẵn thuốc, phải đọc kỹ hướng dẫn sử dụng bút tiêm đi kèm trong tờ hướng dẫn sử dụng thuốc (xem phần Thận trọng đặc biệt trong tiêu hủy và các thao tác khác).
Chống chỉ định
Mẫn cảm với hoạt chất hoặc bất kỳ thành phần tá dược nào được liệt kê trong mục Thành phần.
Cảnh báo và thận trọng
Cảnh báo đặc biệt và thận trọng khi sử dụng
BASAGLAR không phải là insulin được lựa chọn để điều trị nhiễm toan ceton do đái tháo đường. Thay vào đó, khuyến cáo chỉ định tiêm tĩnh mạch insulin tác dụng ngắn trong những trường hợp này.
Trong trường hợp không kiểm soát đường huyết một cách đầy đủ hoặc có xu hướng xảy ra cơn tăng đường huyết hoặc hạ đường huyết, cần xem xét sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân, việc chọn vị trí tiêm và tiêm đúng kỹ thuật và tất cả các yếu tố liên quan khác trước khi cân nhắc điều chỉnh liều.
Khi chuyển bệnh nhân sang sử dụng một loại insulin khác hay nhãn hiệu insulin khác, cần thực hiện dưới sự giám sát y tế chặt chẽ. Những thay đổi về nồng độ, nhãn hiệu (nhà sản xuất), loại (tác dụng ngắn, NPH, chậm, tác dụng kéo dài v.v…), nguồn gốc (insulin động vật, insulin người, chất tương tự insulin người), và/hoặc phương pháp sản xuất có thể dẫn đến việc cần phải thay đổi liều dùng.
Hạ đường huyết
Thời gian xuất hiện hạ đường huyết phụ thuộc vào đặc điểm tác động của insulin được dùng và do đó có thể thay đổi khi thay đổi phác đồ điều trị. Do insulin glargine cung cấp insulin nền ổn định hơn, có thể hay gặp tình trạng hạ đường huyết buổi sáng sớm hơn là vào ban đêm.
Cần thận trọng đặc biệt và nên tăng cường theo dõi đường huyết ở những bệnh nhân mà cơn hạ đường huyết có thể có ý nghĩa lâm sàng đặc biệt, như ở những bệnh nhân bị hẹp các động mạch vành hoặc các mạch máu não (nguy cơ biến chứng tim mạch hoặc biến chứng não do hạ đường huyết) cũng như ở những bệnh nhân mắc bệnh võng mạc tăng sinh, đặc biệt nếu không điều trị bằng laser quang học (nguy cơ xảy ra thoáng mù sau hạ đường huyết).
Bệnh nhân cần biết các trường hợp mà các triệu chứng báo động của hạ đường huyết giảm đi. Các triệu chứng báo động về hạ đường huyết có thể thay đổi, ít rõ rệt hoặc không nhận thấy ở một vài nhóm nguy cơ nhất định. Đó là những bệnh nhân:
- mà sự kiểm soát đường huyết được cải thiện rõ rệt,
- có tình trạng hạ đường huyết phát triển từ từ,
- cao tuổi,
- sau khi đổi từ insulin động vật sang insulin người,
- có bệnh thần kinh thực vật,
- mắc bệnh đái tháo đường đã lâu,
- bị bệnh tâm thần,
- được điều trị đồng thời với một số loại thuốc khác (xem phần Tương tác).
Những trường hợp như thế có thể dẫn đến tình trạng hạ đường huyết nặng (và có thể mất tri giác) trước khi bệnh nhân nhận biết được tình trạng hạ đường huyết.
Tác động kéo dài của insulin glargine tiêm dưới da có thể làm cho hạ đường huyết chậm phục hồi.
Nếu nhận thấy chỉ số hemoglobin glycated (HbA1C) bình thường hoặc giảm, cần phải xem xét khả năng tái phát hoặc không nhận ra các cơn hạ đường huyết (đặc biệt là ban đêm).
Sự tuân thủ của bệnh nhân về liều lượng và chế độ ăn, điều chỉnh liều insulin và nhận biết được các triệu chứng hạ đường huyết là rất cần thiết để giảm nguy cơ hạ đường huyết. Các yếu tố làm tăng nguy cơ hạ đường huyết cần được theo dõi chặt chẽ và có thể cần phải điều chỉnh liều. Các yếu tố đó bao gồm:
- thay đổi vùng tiêm thuốc,
- sự nhạy cảm insulin được cải thiện (ví dụ, do loại trừ các yếu tố gây căng thẳng),
- hoạt động thể lực bất thường, tăng hoặc kéo dài,
- bệnh gian phát (ví dụ như nôn mửa, tiêu chảy),
- ăn uống không đầy đủ,
- bỏ bữa,
- uống rượu,
- một số rối loạn nội tiết mất bù, (ví dụ như suy giáp và thùy sau tuyến yên hoặc suy vỏ thượng thận),
- điều trị đồng thời với một số thuốc khác.
Bệnh gian phát
Bệnh gian phát đòi hỏi sự tăng cường kiểm soát chuyển hóa. Trong nhiều trường hợp, các xét nghiệm nước tiểu tìm ceton được chỉ định, và thường thì cần phải điều chỉnh liều insulin. Nhu cầu insulin thường gia tăng. Bệnh nhân đái tháo đường typ 1 phải tiếp tục ăn đều đặn ít nhất một lượng nhỏ carbohydrate, ngay cả khi họ chỉ có thể ăn ít hoặc không có thức ăn, hoặc nôn mửa v.v… và không bao giờ được ngưng dùng insulin hoàn toàn.
Kháng thể kháng insulin
Dùng insulin có thể gây ra sự hình thành các kháng thể kháng insulin. Trong một số ít trường hợp, sự hiện diện của các kháng thể kháng insulin như vậy có thể cần điều chỉnh liều insulin để điều chỉnh xu hướng tăng hoặc hạ đường huyết (xem phần Dược lực học).
Nhầm thuốc
Đã có báo cáo về sử dụng nhầm thuốc, trong đó các insulin khác, đặc biệt là insulin tác dụng ngắn, đã vô tình được sử dụng thay vì dùng insulin glargine. Phải luôn kiểm tra nhãn insulin trước mỗi lần tiêm để tránh dùng nhầm thuốc giữa BASAGLAR và các insulin khác.
Phối hợp BASAGLAR với pioglitazone
Đã có báo cáo về các trường hợp suy tim khi sử dụng pioglitazone phối hợp với insulin, đặc biệt ở những bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ phát triển tình trạng suy tim. Phải luôn lưu ý điều này nếu cân nhắc điều trị phối hợp pioglitazone và BASAGLAR. Nếu sử dụng phối hợp, bệnh nhân cần được theo dõi các dấu hiệu và triệu chứng của suy tim, tăng cân và phù nề. Cần ngừng dùng pioglitazone nếu xảy ra bất kỳ các triệu chứng suy giảm hoạt động tim.
Hàm lượng natri
Mỗi liều thuốc có chứa ít hơn 1 mmol natri (23 mg), được coi như “không chứa natri”.
Tác động lên khả năng lái xe và vận hành máy móc
Khả năng tập trung và phản ứng của bệnh nhân có thể bị suy giảm do hậu quả của hạ đường huyết hoặc tăng đường huyết hoặc, ví dụ, do suy giảm thị lực. Điều này có thể gây ra nguy hiểm trong những tình huống mà những khả năng này có tầm quan trọng đặc biệt (như đang lái xe hoặc vận hành máy móc).
Nên khuyên bệnh nhân thận trọng để tránh tình trạng hạ đường huyết trong khi lái xe. Điều này rất quan trọng ở những bệnh nhân khó nhận biết hay không nhận biết được những dấu hiệu cảnh báo của hạ đường huyết hoặc ở những người thường xuyên có cơn hạ đường huyết. Cần cân nhắc việc có nên lái xe hoặc vận hành máy móc hay không trong những trường hợp này.
Thận trọng đặc biệt trong tiêu hủy và các thao tác khác
Không được trộn hoặc pha loãng BASAGLAR với bất kỳ insulin nào hoặc thuốc nào khác. Trộn hoặc pha loãng có thể thay đổi dữ liệu thời gian/tác dụng của thuốc và sự pha trộn có thể gây ra kết tủa.
Kiểm tra ống thuốc trước khi sử dụng. Chỉ được sử dụng nếu dung dịch trong suốt, không màu, không có các hạt tiểu phân rắn, và nếu nó nhìn giống nước. BASAGLAR là một dung dịch, nên không cần pha trước khi sử dụng.
Không được sử dụng lại bút đã dùng hết và phải được hủy bỏ đúng cách.
Để ngăn chặn sự lây nhiễm bệnh, mỗi bút tiêm chỉ dùng cho một bệnh nhân.
Luôn luôn kiểm tra nhãn insulin trước mỗi lần tiêm để tránh dùng nhầm insulin glargine với các insulin khác (xem phần Cảnh báo đặc biệt và thận trọng khi sử dụng).
Thao tác với bút tiêm
Cần khuyên bệnh nhân đọc kỹ hướng dẫn sử dụng bút tiêm đi kèm với tờ hướng dẫn sử dụng trước khi sử dụng BASAGLAR KwikPen.
Sử dụng ở phụ nữ có thai & cho con bú
Mang thai
Không có dữ liệu lâm sàng với insulin glargine về phụ nữ mang thai dùng thuốc từ các nghiên cứu lâm sàng có đối chứng. Một số lượng lớn dữ liệu về phụ nữ mang thai (hơn 1000 kết quả trên phụ nữ mang thai) cho thấy không có tác dụng bất lợi cụ thể nào của insulin glargine trên phụ nữ mang thai và không có độc tính đặc hiệu gây dị tật cho thai nhi/trẻ sơ sinh do dùng insulin glargine.
Dữ liệu trên động vật không cho thấy độc tính trên sinh sản.
Có thể cân nhắc sử dụng BASAGLAR trong thai kỳ, nếu cần thiết trên lâm sàng.
Phụ nữ có bệnh đái tháo đường từ trước hoặc trong khi mang thai phải duy trì kiểm soát tốt chuyển hóa trong suốt thai kỳ để ngăn ngừa các biến cố bất lợi liên quan đến tăng đường huyết. Nhu cầu insulin có thể giảm trong ba tháng đầu và thường tăng lên trong ba tháng giữa và ba tháng cuối thai kỳ. Ngay sau khi sinh, nhu cầu insulin lại giảm nhanh (tăng nguy cơ hạ đường huyết). Cần theo dõi kỹ đường huyết.
Cho con bú
Hiện tại chưa biết insulin glargine có được bài tiết vào sữa mẹ hay không. Không có tác dụng trên chuyển hóa nào khi trẻ sơ sinh/trẻ nhỏ bú mẹ có insulin glargine trong sữa được dự đoán vì insulin glargine như một chất peptide được tiêu hóa thành các axit amin trong hệ tiêu hóa của người.
Bà mẹ mắc đái tháo đường trong thời gian đang cho con bú có thể cần phải điều chỉnh liều insulin và chế độ ăn.
Khả năng sinh sản
Các nghiên cứu trên động vật không chỉ ra những tác động có hại trực tiếp đối với khả năng sinh sản.
Tương tác
Một số chất ảnh hưởng đến chuyển hóa glucose và có thể cần phải điều chỉnh liều insulin glargine.
Các chất có thể làm tăng tác dụng hạ đường huyết và tăng nhạy cảm với hạ đường huyết bao gồm các thuốc điều trị đái tháo đường dạng uống, các thuốc ức chế enzym chuyển angiotensin (ACE), disopyramid, các fibrate, fluoxetine, các chất ức chế monoamin oxidase (MAO), pentoxifylline, propoxyphen, các salicylat, các chất tương tự somatostatin và các thuốc kháng sinh sulphonamide.
Các chất làm giảm tác dụng hạ đường huyết bao gồm corticosteroid, danazol, diazoxide, các thuốc lợi tiểu, glucagon, isoniazid, estrogen, progestogen, dẫn xuất phenothiazin, somatropin, các thuốc giống giao cảm (ví dụ epinephrine [adrenaline], salbutamol, terbutaline), hormon tuyến giáp, các thuốc chống loạn thần không điển hình (ví dụ như clozapine và olanzapine) và thuốc ức chế protease.
Các thuốc chẹn beta, clonidin, muối lithium hoặc rượu có thể làm tăng hoặc làm giảm tác dụng hạ đường huyết của insulin. Pentamidine có thể gây hạ đường huyết, đôi khi là tăng đường huyết sau đó.
Ngoài ra, dưới ảnh hưởng của các thuốc hủy giao cảm như thuốc ức chế beta, clonidin, guanethidine và reserpine, các dấu hiệu của đáp ứng điều hòa ngược của adrenergic có thể bị giảm hoặc không hiện diện.
Tương kỵ
Không được trộn hoặc pha loãng thuốc với bất kỳ thuốc nào khác.
Tác dụng không mong muốn
Tóm tắt về các dữ liệu an toàn
Hạ đường huyết (rất phổ biến), nhìn chung là tác dụng không mong muốn thường gặp nhất khi điều trị insulin, có thể xảy ra nếu liều insulin quá cao vượt quá nhu cầu (xem phần Cảnh báo đặc biệt và thận trọng khi sử dụng).
Bảng các tác dụng không mong muốn
Các tác dụng không mong muốn sau thu được từ các thử nghiệm lâm sàng được liệt kê dưới đây theo các thuật ngữ hay dùng của MedDRA theo hệ cơ quan và theo thứ tự tỷ lệ giảm dần sự xuất hiện các biến cố (rất phổ biến: ≥ 1/10; phổ biến: ≥ 1/100 đến <1/10; không phổ biến: ≥ 1/1.000 đến <1/100; hiếm: ≥ 1/10.000 đến <1/1.000; rất hiếm: <1/10.000 và không rõ (không thể ước tính từ dữ liệu sẵn có)
Trong mỗi nhóm tỷ lệ mắc, các tác dụng không mong muốn được thể hiện trong thứ tự giảm dần về mức độ nghiêm trọng.

Image from Drug Label Content

Mô tả về các tác dụng không mong muốn chọn lọc
Rối loạn chuyển hóa và dinh dưỡng
Các cơn hạ đường huyết nặng, đặc biệt nếu tái phát, có thể dẫn đến tổn thương thần kinh. Các cơn hạ đường huyết kéo dài hoặc nghiêm trọng có thể đe doạ đến tính mạng. Ở nhiều bệnh nhân, các dấu hiệu và triệu chứng của biểu hiện suy nhược thần kinh do thiếu glucose não được báo trước bởi các dấu hiệu của sự đáp ứng điều hòa ngược của adrenergic. Nhìn chung, sự suy giảm đường huyết càng nhiều và càng nhanh thì hiện tượng đáp ứng điều hòa ngược và các triệu chứng của nó càng rõ rệt.
Rối loạn hệ miễn dịch
Các phản ứng dị ứng với insulin kiểu ngay lập tức rất hiếm. Những phản ứng như vậy với insulin (kể cả insulin glargine) hoặc tá dược, có thể đi kèm với phản ứng lan rộng ngoài da, phù mạch, co thắt phế quản, tụt huyết áp và sốc, và có thể đe doạ đến tính mạng.
Rối loạn mắt
Một sự thay đổi rõ rệt về kiểm soát đường huyết có thể gây ra sự suy giảm thị lực tạm thời, do sự thay đổi tạm thời về độ cứng và chiết suất của thấu kính.
Sự tăng cường kiểm soát đường huyết lâu dài giúp làm giảm nguy cơ tiến triển của bệnh võng mạc đái tháo đường. Tuy nhiên, tăng cường liệu pháp insulin với sự cải thiện đột ngột trong kiểm soát đường huyết có thể dẫn đến tình trạng nặng hơn tạm thời của bệnh võng mạc đái tháo đường. Ở những bệnh nhân mắc bệnh võng mạc tăng sinh, đặc biệt nếu không điều trị bằng laser quang học, các cơn hạ đường huyết nặng có thể làm mất thị lực thoáng qua.
Rối loạn da và các mô dưới da
Rối loạn phân bố mỡ (loạn dưỡng mỡ) và thoái hóa dạng bột ở da có thể xảy ra ở vị trí tiêm và làm chậm sự hấp thu insulin tại chỗ. Luân chuyển liên tục các vị trí tiêm trong các khu vực đã chỉ ra có thể giúp giảm hoặc ngăn ngừa các phản ứng này.
Rối loạn chung và tình trạng tại chỗ tiêm
Phản ứng tại chỗ tiêm bao gồm đỏ, đau, ngứa, phát ban, sưng hoặc viêm. Hầu hết các phản ứng nhẹ đối với insulin ở vị trí tiêm thường qua đi sau vài ngày tới vài tuần.
Hiếm khi, insulin có thể gây ra ứ natri và phù nề đặc biệt nếu kiểm soát chuyển hoá kém trước đó được cải thiện bằng liệu pháp insulin tăng cường.
Nhóm bệnh nhân nhi
Nhìn chung, dữ liệu an toàn của trẻ em và trẻ vị thành niên (≤ 18 tuổi) tương tự như dữ liệu an toàn của người lớn. Các báo cáo về các tác dụng không mong muốn thu được trong quá trình lưu hành thuốc bao gồm các phản ứng ở vị trí tiêm (đau ở vị trí tiêm, phản ứng tại chỗ tiêm) và phản ứng trên da (phát ban, nổi mày đay) ở trẻ em và trẻ vị thành niên (≤ 18 tuổi) tương đối thường xuyên hơn so với người lớn. Không có dữ liệu nghiên cứu lâm sàng về tính an toàn cho trẻ dưới 2 tuổi.
Báo cáo về các tác dụng không mong muốn bị nghi ngờ
Báo cáo về các nghi ngờ tác dụng không mong muốn sau khi thuốc lưu hành trên thị trường là rất quan trọng. Điều này cho phép tiếp tục theo dõi cán cân lợi ích/nguy cơ của thuốc. Các cán bộ y tế được yêu cầu phải báo cáo bất kỳ tác dụng không mong muốn bị nghi ngờ cho hệ thống báo cáo quốc gia.
Quá liều
Các triệu chứng
Quá liều insulin có thể dẫn đến tình trạng hạ đường huyết nặng và đôi khi kéo dài và đe dọa đến tính mạng.
Xử trí
Các cơn hạ đường huyết nhẹ thường có thể được điều trị bằng ăn hoặc uống các carbohydrate. Có thể cần phải điều chỉnh liều lượng thuốc, chế độ ăn hoặc hoạt động thể lực.
Các trường hợp nặng hơn với biến chứng hôn mê, co giật hoặc suy giảm chức năng thần kinh có thể được điều trị bằng tiêm bắp /dưới da glucagon hoặc truyền tĩnh mạch glucose nồng độ cao. Cần duy trì việc dùng chất bột đường và theo dõi lâu dài vì hạ đường huyết có thể tái phát sau khi đã hồi phục rõ rệt trên lâm sàng.
Bảo quản
Basaglar phải được bảo quản ở nơi tránh nhiệt độ và ánh sáng.
Bảo quản trong tủ lạnh 2°C đến 8°C [36°F đến 46°F] cho đến khi sử dụng. Không làm đông lạnh thuốc. Không sử dụng thuốc khi đã bị đông lạnh.
Bảo quản ở nhiệt độ phòng đến tối đa 30°C [86°F] trong quá trình sử dụng. Sử dụng trong vòng 28 ngày sau ngày sử dụng đầu tiên. 28 ngày này đã được tính trong 24 tháng hạn dùng của thuốc.
Phân loại MIMS
Insulin
Phân loại ATC
A10AE04 - insulin glargine ; Belongs to the class of long-acting insulins and analogues for injection. Used in the treatment of diabetes.
Trình bày/Đóng gói
Dạng
Basaglar Bút tiêm đóng sẵn thuốc 100 U/mL
Trình bày/Đóng gói
3 mL x 5 × 1's
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo