Quảng cáo
Quảng cáo
Navelbine

Navelbine Dược động học

vinorelbine

Nhà sản xuất:

Pierre Fabre Vietnam Co., Ltd.

Nhà phân phối:

Gigamed
Thông tin kê toa chi tiết tiếng Việt
Dược động học
Các thông số dược động học của vinorelbine được đánh giá trong máu.
Hấp thu
Sau khi uống, vinorelbine được hấp thu nhanh, Tmax đạt được sau 1,5 đến 3 giờ với nồng độ đỉnh trong máu (Cmax) khoảng 130 ng/mL sau khi uống một liều 80mg/m2. Tính sinh khả dụng sinh học tuyệt đối là khoảng 40% và thức ăn không làm thay đổi sự hấp thu của vinorelbine.
Vinorelbine dùng đường uống với liều 60 và 80mg/m2 hấp thu vào máu tương đương với dùng vinorelbine đường tĩnh mạch với liều tương ứng là 25 và 30 mg/m2.
Sự hấp thu thay đổi trên từng bệnh nhân là tương đương giữa đường truyền tĩnh mạch và đường uống.
Sự hấp thu của vinorelbine vào máu tăng lên theo tỷ lệ thuận với liều lên đến 100mg/m2.
Phân bố
Thuốc liên kết với protein huyết tương yếu (13,5%), mặc dù vinorelbine gắn kết mạnh với các tế bào máu, đặc biệt là tiểu cầu (78%).
Thể tích phân phối thuốc ở trạng thái ổn định rất lớn, trung bình 21,2 L.kg-1 (khoảng từ 7,5-39,7 L.kg-1), cho thấy thuốc phân phối rộng khắp tới các mô.
Vinorelbine được hấp thu đáng kể trong phổi, theo đánh giá của sinh thiết phổi cho thấy nồng độ lên đến 300 lần cao hơn so với trong huyết thanh.
Vinorelbine không tìm thấy trong hệ thống thần kinh trung ương.
Chuyển hóa sinh học
Tất cả các chất chuyển hóa của vinorelbine được hình thành bởi đồng phân của cytochrome P450 CYP3A4, ngoại trừ 4 -O-deacetylvinorelbine có khả năng được hình thành bởi carboxylesterase. 4-O-deacetylvinorelbine là chất chuyển hóa có hoạt tính duy nhất tìm thấy trong máu
Vinorelbine không kết hợp với gốc sulfate và glucuronide.
Thải trừ
Thời gian bán hủy trung bình của vinorelbine là khoảng 40 giờ. Độ thanh thải trong máu cao, gần bằng lưu lượng máu ở gan là 0,72 L/giờ/kg ( khoảng từ 0,32-1,26 L/giờ/kg). Độ thanh thải ở thận thấp (< 5% liều dùng), thải trừ chủ yếu dưới dạng hoạt chất ban đầu. Sự bài tiết qua mật là con đường chủ yếu loại bỏ hợp chất vinorelbine ban đầu và các chất chuyển hóa của nó.
Các nhóm bệnh nhân đặc biệt
Bệnh nhân suy thận: Những ảnh hưởng của rối loạn chức năng thận lên dược động học của vinorelbine chưa được nghiên cứu. Tuy nhiên, do mức độ đào thải thuốc này qua thận thấp nên không khuyến cáo giảm liều vinorelbine đối với trường hợp bệnh nhân suy thận.
Bệnh nhân suy gan: Dược động học của vinorelbine đường uống không thay đổi sau khi uống 60 mg/m2 ở những bệnh nhân suy chức năng gan nhẹ (bilirubin < 1,5 lần giới hạn trên bình thường, và AST và/hoặc ALT ở mức 1,5-2,5 lần giới hạn trên bình thường) và 50 mg/m2 ở bệnh nhân suy chức năng gan vừa (bilirubin 1,5-3 lần giới hạn trên bình thường, bất kể mức độ của ALT và AST). Không có dữ liệu về việc sử dụng Navelbine viên nang mềm đối với bệnh nhân suy chức năng gan nặng, do đó việc sử dụng nó không khuyến nghị trên các bệnh nhân này (xem mục Liều lượng và cách dùng, Thận trọng).
Bệnh nhân lớn tuổi: Một nghiên cứu dùng vinorelbine dạng uống ở bệnh nhân cao tuổi > 70 tuổi) mắc bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ chứng minh rằng dược động học của vinorelbine không bị ảnh hưởng bởi tuổi tác. Tuy nhiên, vì bệnh nhân cao tuổi thường rất yếu, cần thận trọng khi tăng liều viên Navelbine (xem mục Liều lượng và cách dùng).
Mối liên hệ giữa dược lực học và dược động học
Có mối liên hệ chặt chẽ đã được chứng minh giữa sự hấp thu trong máu và sự suy giảm tế bào bạch cầu hay bạch cầu đa nhân.
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo