Hiệu quả của MISENBO trên bệnh nhân tăng áp động mạch phổi (PAH) nặng chưa được thiết lập.
Khuyến cáo sử dụng liệu pháp khác ở bệnh nhân PAH nặng nếu tình trạng lâm sàng xấu đi.
So sánh lợi ích nguy cơ chưa được thực hiện ở bệnh nhân có triệu chứng PAH thuộc nhóm I.
Chỉ sử dụng MISENBO khi huyết áp tâm thu lớn hơn 85 mmHg.
MISENBO không có tác dụng làm lành các vết loét có sẵn.
Chức năng gan
Nồng độ enzym gan aspartat và alanin aminotransferases (AST và/hoặc ALT) phụ thuộc vào liều của bosentan. Những thay đổi về enzym gan thường xảy ra trong vòng 26 tuần đầu tiên điều trị, nhưng cũng có thể xảy ra muộn hơn. Sự gia tăng này có thể một phần là do sự ức chế cạnh tranh của việc loại bỏ muối mật từ tế bào gan, các cơ chế khác chưa được xác định rõ ràng, có thể liên quan đến sự xuất hiện của rối loạn chức năng gan. Sự tích lũy bosentan trong các tế bào gan gây phân hủy tế bào dẫn đến tổn thương gan nghiêm trọng hoặc do cơ chế miễn dịch. Rối loạn chức năng gan có thể tăng lên khi sử dụng đồng thời các thuốc là chất ức chế thải trừ muối mật như rifampicin, glibenclamid và cyclosporin A tuy nhiên còn hạn chế về dữ liệu.
Cần xác định nồng độ aminotransferase trước khi bắt đầu điều trị và 1 lần/tháng trong quá trình điều trị, 2 tuần sau khi tăng liều.
• 3 x ULN < ASAT/ALAT ≤ 5 x ULN: có thể giảm liều hoặc ngưng dùng thuốc. Theo dõi nồng độ aminotransferase 2 lần/tuần. Nếu nồng độ aminotransferase trở về mức trước điều trị, xem xét tiếp tục liệu pháp hoặc bắt đầu lại.
• 5 x ULN < ASAT/ALAT ≤ 8 x ULN: ngưng điều trị và theo dõi nồng độ aminotransferase 2 lần/tuần. Nếu nồng độ aminotransferase trở về mức trước điều trị, có thể xem xét tái điều trị bằng MISENBO.
• ASAT/ALAT > 8 x ULN: khuyến cáo ngưng điều trị bằng MISENBO.
Trong trường hợp có triệu chứng lâm sàng liên quan đến tổn thương gan: buồn nôn, nôn, sốt, đau bụng, vàng da, thờ ơ hoặc mệt mỏi bất thường, hội chứng giống cúm (đau khớp, đau cơ, sốt), phải ngưng điều trị và không khuyến cáo tái điều trị bằng MISENBO.
Tái điều trị bằng MISENBO chỉ được xem xét khi lợi ích thu được lớn hơn nguy cơ tiềm ẩn và nồng độ aminotransferase thấp hơn mức trước khi điều trị. Cần xác định nồng độ aminotransferase sau khi tái điều trị 3 ngày, 2 tuần và theo khuyến cáo trên.
Nồng độ hemoglobin
Trong quá trình điều trị, nồng độ hemoglobin giảm phụ thuộc liều bosentan. Nồng độ hemoglobin giảm sau 4 – 12 tuần điều trị. Cần kiểm tra nồng độ hemoglobin trước khi điều trị, 1 lần/tháng trong 4 tháng đầu tiên và sau đó cứ 3 tháng 1 lần. Nếu giảm nồng độ hemoglobin có biểu hiện trên lâm sàng, cần tiến hành xác định nguyên nhân và có biện pháp điều trị cụ thể. Đã có trường hợp thiếu máu cần phải truyền hồng cầu được báo cáo.
Nguy cơ trên phụ nữ có khả năng sinh sản
MISENBO làm mất tác dụng của các liệu pháp tránh thai nội tiết tố và nguy cơ tăng áp động mạch phổi ở phụ nữ có thai cũng như gây quái thai ở động vật.
Chống chỉ định MISENBO cho phụ nữ có khả năng mang thai trừ khi sử dụng các biện pháp tránh thai hiệu quả và có xét nghiệm thai nghén âm tính.
Thuốc tránh thai nội tiết tố không có hiệu quả trong khi điều trị bằng MISENBO.
Xét nghiệm thai nghén trong quá trình điều trị được khuyến cáo để phát hiện sớm việc mang thai.
Tắc nghẽn mạch phổi
Các trường hợp phù phổi đã được báo cáo với các thuốc giãn mạch (chủ yếu là prostacyclin) khi được sử dụng ở những bệnh nhân bị tắc tĩnh mạch phổi. Do đó, khi có các dấu hiệu của phù phổi tiến triển trên bệnh nhân sử dụng MISENBO, nên cân nhắc khả năng bệnh tắc nghẽn mạch. Trong giai đoạn hậu tiếp thị đã có những báo cáo hiếm gặp về phù phổi ở những bệnh nhân được điều trị bằng MISENBO.
Tăng áp động mạch phổi đồng thời với suy tim trái
Không có nghiên cứu được thực hiện ở bệnh nhân tăng huyết áp phổi và rối loạn chức năng tim trái đồng thời. Tuy nhiên, trong nghiên cứu đối chứng giả dược (nghiên cứu AC-052-301/302 [ENABLE 1 & 2]) gồm 1611 bệnh nhân (804 sử dụng bosentan và 807 giả dược) bị suy tim mãn tính nặng (CHF) được điều trị trong thời gian trung bình 1,5 năm, tỷ lệ nhập viện do CHF trong 4 – 8 tuần điều trị đầu tiên tăng lên ở nhóm bosentan, có thể là kết quả của việc giữ nước (tăng cân sớm, giảm nồng độ hemoglobin và tăng tỷ lệ phù chân). Vào cuối nghiên cứu, không có sự khác biệt trong tổng số nhập viện do suy tim và tử vong giữa bệnh nhân được điều trị bằng bosentan và giả dược. Do đó, các bệnh nhân nên được theo dõi các dấu hiệu giữ nước (tăng cân). Nếu điều này xảy ra, điều trị bằng thuốc lợi tiểu hoặc tăng liều thuốc lợi tiểu hiện có. Điều trị bằng thuốc lợi tiểu nên được xem xét ở những bệnh nhân có bằng chứng giữ nước trước khi bắt đầu điều trị bằng MISENBO.
Tăng áp động mạch phổi đồng thời với nhiễm HIV
Hạn chế các nghiên cứu lâm sàng sử dụng bosentan ở bệnh nhân PAH có nhiễm virus HIV đang được điều trị bằng các thuốc kháng virus. Một nghiên cứu trên những người khỏe mạnh sử dụng đồng thời bosentan và lopinavir + ritonavir cho thấy nồng độ bosentan trong huyết tương tăng lên và đạt tối đa sau 4 ngày điều trị. Cần theo dõi chặt chẽ, nhất là giai đoạn đầu điều trị với bosentan ở bệnh nhân dùng các thuốc ức chế protease do nguy cơ hạ huyết áp và tiến hành xét nghiệm chức năng gan. Không thể loại trừ nguy cơ nhiễm độc gan và các tác dụng phụ về huyết học tăng lên khi sử dụng bosentan kết hợp với các sản phẩm thuốc kháng virus. Do khả năng tương tác liên quan đến tác dụng trên CYP450, bosentan có thể ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị kháng virus, những bệnh nhân này cũng cần được theo dõi cẩn thận về nhiễm HIV.
Tăng áp động mạch phổi thứ phát do bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD)
Tính an toàn và khả năng dung nạp của bosentan đã được nghiên cứu trong một nghiên cứu không kiểm soát kéo dài 12 tuần ở 11 bệnh nhân tăng huyết áp phổi thứ phát do COPD nặng (giai đoạn III theo phân loại GOLD). Sự gia tăng thông khí và giảm độ bão hòa oxy đã được quan sát thấy, tác dụng phụ thường gặp nhất là khó thở, khuyến cáo ngưng sử dụng bosentan.
Dùng đồng thời với các thuốc khác
Chống chỉ định sử dụng đồng thời bosentan và cyclosporin A.
Không khuyến cáo sử dụng đồng thời MISENBO với glibenclamid, fluconazol và rifampicin.
Tránh sử dụng đồng thời MISENBO với các chất ức chế CYP3A4 và CYP2C9.
Ảnh hưởng của thuốc lên khả năng lái xe và vận hành máy móc
Không có nghiên cứu đánh giá hiệu quả trực tiếp của MISENBO đối với khả năng lái xe và sử dụng máy móc. Tuy nhiên, MISENBO có thể gây hạ huyết áp, với các triệu chứng chóng mặt, mờ mắt hoặc ngất có thể ảnh hưởng đến khả năng lái xe hoặc sử dụng máy móc.