Tần suất của các biến cố bất lợi trong điều trị - cấp cứu trong các thử nghiệm lâm sàng sử dụng Humalog trên bệnh nhân đái tháo đường typ 1 và typ 2 được liệt kê trong các bảng dưới đây.
- xem Bảng 1.

- xem Bảng 2.
Khởi đầu insulin và tăng cường kiểm soát đường huyết
Tăng cường hoặc cải thiện nhanh chóng việc kiểm soát đường huyết có liên quan đến rối loạn khúc xạ thị lực tạm thời, có hồi phục, làm bệnh võng mạc đái tháo đường tiến triển xấu đi, và đau thần kinh ngoại biên cấp tính. Tuy nhiên, kiểm soát đường huyết lâu dài làm giảm nguy cơ bệnh võng mạc đái tháo đường và bệnh thần kinh.
Loạn dưỡng mỡ
Sử dụng insulin lâu dài, kể cả Humalog, có thể gây loạn dưỡng mỡ tại vị trí tiêm hoặc truyền insulin nhiều lần. Loạn dưỡng mỡ ở vị trí tiêm thuốc không phổ biến (1/1.000 đến < 1/100). Loạn dưỡng mỡ bao gồm phì đại mô mỡ (mô mỡ dày lên) và teo mỡ (mô mỡ mỏng đi), và có thể ảnh hưởng đến sự hấp thu insulin. Xoay vòng các vị trí tiêm hoặc tiêm truyền để giảm nguy cơ loạn dưỡng mỡ (xem phần
Liều lượng và Cách dùng).
Tăng cân
Có thể xảy ra tăng cân khi điều trị bằng insulin, kể cả Humalog, và được cho là do tác dụng đồng hóa của insulin và giảm glucose niệu.
Phù ngoại vi
Insulin, kể cả Humalog, có thể gây ứ natri và phù nề, đặc biệt trong các trường hợp kiểm soát chuyển hóa kém trước đây đã được cải thiện bằng cách điều trị bằng insulin tăng cường.
Phản ứng bất lợi khi truyền insulin dưới da liên tục (CSII) - Humalog
Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, bắt chéo, 12 tuần, ở bệnh nhân trưởng thành bị đái tháo đường typ 1 (n = 39), tỷ lệ tắc dây truyền và phản ứng tại chỗ tiêm truyền là tương tự giữa bệnh nhân điều trị bằng Humalog và insulin người tác dụng ngắn.
- xem Bảng 3.

Trong một nghiên cứu thiết kế song song, ngẫu nhiên, 16 tuần, nhãn mở trên trẻ em và thanh thiếu niên bị đái tháo đường typ 1, các báo cáo về biến cố bất lợi có liên quan đến phản ứng tại chỗ tiêm truyền là tương tự giữa insulin lispro và insulin aspart (21% trong 100 bệnh nhân so với 17% trên 198 bệnh nhân). Trong cả hai nhóm, báo cáo về tác dụng bất lợi tại chỗ tiêm truyền thường gặp nhất là ban đỏ tại chỗ tiêm truyền và phản ứng tại chỗ tiêm truyền.
Các phản ứng dị ứng
Dị ứng cục bộ - Dị ứng cục bộ ở bệnh nhân là phổ biến (1/100 đến < 1/10). Như với bất kỳ liệu pháp insulin nào, bệnh nhân sử dụng Humalog có thể bị đỏ, sưng, hoặc ngứa tại chỗ tiêm. Những phản ứng nhẹ thường qua đi sau một vài ngày đến vài tuần, nhưng trong một số trường hợp, có thể cần phải ngừng dùng Humalog. Trong một số trường hợp, những phản ứng này có thể liên quan đến các yếu tố khác không phải insulin, như chất kích thích trong các tác nhân làm sạch da hoặc tiêm không đúng kỹ thuật.
Dị ứng toàn thân - Dị ứng toàn thân hiếm gặp (1/10.000 đến < 1/1.000). Dị ứng có tính lan tỏa nghiêm trọng, đe dọa tính mạng, bao gồm phản ứng phản vệ, có thể xảy ra với bất kỳ insulin, kể cả Humalog. Dị ứng có tính lan tỏa của insulin có thể gây phát ban toàn thân (bao gồm ngứa), khó thở, thở khò khè, hạ huyết áp, nhịp tim nhanh, hay toát mồ hôi. Những trường hợp dị ứng toàn thân nặng có thể đe dọa tính mạng.
Trong các thử nghiệm lâm sàng có đối chứng, ngứa (có hoặc không có phát ban) được ghi nhận ở 17 bệnh nhân dùng insulin người tác dụng ngắn (n = 2.969) và 30 bệnh nhân dùng Humalog (n = 2.944). Phản ứng cục bộ và đau cơ lan tỏa đã được báo cáo do metacresol tiêm, là một tá dược trong Humalog (xem
Chống chỉ định).
Sản xuất kháng thể
Trong các thử nghiệm lâm sàng lớn với các bệnh nhân đái tháo đường typ 1 (n = 509) và typ 2 (n = 262), việc hình thành kháng thể kháng insulin (các kháng thể đặc hiệu kháng insulin lispro, các kháng thể đặc hiệu kháng insulin, các kháng thể kháng chéo) được đánh giá trên những bệnh nhân sử dụng cả insulin người tác dụng ngắn và Humalog (bao gồm cả những bệnh nhân trước đó đã được điều trị bằng insulin và những bệnh nhân chưa từng điều trị). Như dự đoán, mức tăng kháng thể lớn nhất xảy ra ở những bệnh nhân mới điều trị bằng insulin. Mức độ kháng thể đạt đỉnh vào 12 tháng và giảm dần trong những năm còn lại của nghiên cứu. Những kháng thể này dường như không gây ra sự suy giảm trong việc kiểm soát đường huyết hoặc đòi hỏi tăng liều insulin. Không có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa sự thay đổi trong tổng liều insulin hàng ngày và sự thay đổi phần trăm kháng thể có liên quan đối với bất kỳ loại kháng thể nào.
Hạ đường huyết là tác dụng không mong muốn thường gặp nhất của liệu pháp insulin mà bệnh nhân bị đái tháo đường có thể gặp phải. Hạ đường huyết nặng có thể dẫn đến bất tỉnh, và trong trường hợp nặng nhất có thể tử vong. Không có tần suất cụ thể về hạ đường huyết, vì hạ đường huyết là kết quả của cả yếu tố liều dùng insulin và các yếu tố khác, như chế độ ăn và luyện tập thể lực của bệnh nhân.
Hạ kali huyết.
Các trường hợp bị phù đã được báo cáo khi sử dụng liệu pháp insulin, đặc biệt khi dùng liệu pháp insulin tăng cường nhằm cải thiện sự kiểm soát chuyển hóa kém trước đó.
Hướng dẫn cách xử trí ADR
Các phản ứng tại chỗ sẽ dần hết trong quá trình điều trị.
Teo mô mỡ dưới da có thể điều trị khỏi bằng cách tiêm insulin động vật tinh khiết hơn hay insulin người vào trong hay xung quanh chỗ bị teo.
Phì đại mô mỡ có thể tránh được bằng cách luân chuyển vị trí tiêm thuốc.
Hạ đường huyết: Người bệnh phải biết các dấu hiệu báo trước của cơn hạ đường huyết (ví dụ: ra mồ hôi, chóng mặt, run) và có thể vượt qua được bằng cách ăn thức ăn hoặc uống nước có đường.