Hấp thu
Losartan
Sau khi uống, losartan hấp thu tốt và bị chuyển hóa bước đầu ở gan, tạo thành một chất chuyển hóa acid carboxylic còn hoạt tính và các chất chuyển hóa khác không còn hoạt tính. Sinh khả dụng toàn thân của viên losartan khoảng 33%. Nồng độ đỉnh trung bình của losartan và chất chuyển hóa còn hoạt tính theo thứ tự là 1 giờ và 3-4 giờ. Không có tác dụng có ý nghĩa lâm sàng về nồng độ của losartan trong huyết tương khi thuốc được dùng cùng với bữa ăn chuẩn.
Amlodipine
Sau khi uống amlodipine liều điều trị, sự hấp thu gây ra nồng độ đỉnh trong huyết tương giữa 6 và 12 giờ. Sinh khả dụng tuyệt đối là 64-90%. Sinh khả dụng của amlodipine không thay đổi khi có thức ăn.
Phân bố
Losartan
Cả losartan và chất chuyển hóa còn hoạt tính của nó liên kết với protein huyết tương ≥ 99%, chủ yếu là với albumin. Thể tích phân bố của losartan là 34 lít. Những nghiên cứu ở chuột cống chỉ rằng losartan đi qua hàng rào máu-não rất kém, nếu không muốn nói là hoàn toàn không.
Amlodipine
Những nghiên cứu ex vivo chỉ rằng khoảng 93% thuốc trong tuần hoàn gắn với protein huyết tương của bệnh nhân tăng huyết áp.
Chuyển hóa
Losartan
Khoảng 14% liều losartan uống hoặc tiêm tĩnh mạch chuyển thành chất chuyển hóa còn hoạt tính. Sau khi uống hoặc tiêm tĩnh mạch losartan kali đánh dấu 14C, hoạt tính phóng xạ trong huyết tương chủ yếu là của losartan và chất chuyển hóa còn hoạt tính của nó. Sự chuyển hóa thấp của losartan thành chất chuyển hóa còn hoạt tính của nó chỉ thấy ở khoảng 1% số người được nghiên cứu.
Cùng với chất chuyển hóa còn hoạt tính, các chất chuyển hóa không còn hoạt tính cũng được tạo thành, gồm có 2 chất chuyển hóa chính do sự hydroxyl hóa của mạch bên butyl, và một chất chuyển hóa với lượng ít ở dạng N-2 tetrazol glucuronid.
Amlodipine
Amlodipine bị chuyển hóa rất mạnh (khoảng 90%) thành các chất chuyển hóa không còn hoạt tính qua chuyển hóa ở gan. Khoảng 10% chất mẹ và 60% các chất chuyển hóa thải trừ trong nước tiểu.
Thải trừ
Losartan
Độ thanh thải huyết tương của losartan và chất chuyển hóa còn hoạt tính của nó theo thứ tự vào khoảng 600 mL/phút và 50 mL/phút. Độ thanh thải thận của losartan và chất chuyển hóa còn hoạt tính của nó theo thứ tự vào khoảng 74 mL/phút và 26 mL/phút. Khi uống losartan, khoảng 4% liều dùng được thải trừ ở dạng không đổi trong nước tiểu, và khoảng 6% liều dùng được thải trừ trong nước tiểu dạng chất chuyển hóa còn hoạt tính. Dược động học của losartan và chất chuyển hóa còn hoạt tính của nó tỷ lệ thuận với liều uống của losartan kali đến liều 200 mg.
Sau khi uống, nồng độ trong huyết tương của losartan và chất chuyển hóa của nó giảm theo hàm số mũ với nửa đời thải trừ cuối cùng theo thứ tự khoảng 2 giờ và 6-9 giờ. Trong khi dùng ngày một lần liều 100 mg, cả losartan và chất chuyển hóa còn hoạt tính của nó đều không tích lũy có ý nghĩa trong huyết tương.
Losartan và chất chuyển hóa của nó đều bị thải trừ cả qua mật và qua nước tiểu. Sau khi uống một liều losartan đánh dấu 14C ở người, khoảng 35% hoạt tính phóng xạ thấy trong nước tiểu và 58% trong phân. Sau khi tiêm tĩnh mạch một liều losartan đánh dấu 14C cho người, khoảng 43% hoạt tính phóng xạ thấy trong nước tiểu và 50% trong phân.
Amlodipine
Sự thải trừ khỏi huyết thanh theo hai pha với nửa đời thải trừ pha cuối khoảng 30-50 giờ. Nồng độ amlodipine trong huyết tương ở trạng thái cân bằng động học đạt được sau 7 đến 8 ngày khi dùng liên tục ngày một lần.
Đặc điểm bệnh nhân
Cozaar XQ
Cozaar XQ đã không được nghiên cứu trong một quần thể bệnh nhân đặc biệt nào, là do bản chất của losartan và amlodipine đã được biết rất rõ. Cần thận trọng khi dùng losartan cho người suy thận và suy gan, và chống chỉ định cho phụ nữ đang cho con bú. Chưa tiến hành những nghiên cứu chính thức ở người cao tuổi và trẻ em. Đối với amlodipine, cần thận trọng ở người suy gan, và chống chỉ định ở người có bệnh tim mạch không ổn định và phụ nữ có thai hoặc cho con bú.
Losartan
Nồng độ losartan và chất chuyển hóa còn hoạt tính của nó ở nam giới cao tuổi tăng huyết áp không khác biệt đáng kể so với nam giới còn trẻ bị tăng huyết áp.
Nồng độ losartan trong huyết tương ở phụ nữ tăng huyết áp cao hơn 2 lần so với nam giới tăng huyết áp. Nồng độ chất chuyển hóa còn hoạt tính thì không khác nhau giữa nam và nữ. Sự khác nhau về dược động học này đã được đánh giá và thấy là không có ý nghĩa lâm sàng.
Sau khi uống ở bệnh nhân bị xơ gan do rượu mức độ nhẹ và vừa, nồng độ trong huyết tương của losartan và chất chuyển hóa của nó theo thứ tự lớn hơn gấp 5 lần và 1,7 lần so với người tình nguyện nam giới còn trẻ.
Nồng độ losartan trong huyết tương không thay đổi ở bệnh nhân có độ thanh thải creatinine trên 10 mL/phút. So với bệnh nhân có chức năng thận bình thường, AUC của losartan lớn hơn khoảng 2 lần so với bệnh nhân chạy thận nhân tạo. Nồng độ trong huyết tương của chất chuyển hóa còn hoạt tính không thay đổi ở bệnh nhân suy thận hoặc chạy thận nhân tạo. Cả losartan và chất chuyển hóa của nó đều không bị loại bỏ khi chạy thận nhân tạo.
Amlodipine
Dược động học của amlodipine không bị ảnh hưởng đáng kể khi suy thận. Do đó, bệnh nhân suy thận có thể dùng liều khởi đầu như bình thường.
Bệnh nhân cao tuổi và bệnh nhân suy gan có độ thanh thải amlodipine giảm, nên AUC tăng khoảng 40-60% và cần phải dùng liều khởi đầu thấp hơn. AUC tăng tương tự như vậy ở bệnh nhân suy tim mức độ vừa đến nặng.
62 bệnh nhân tăng huyết áp độ tuổi từ 6 đến 17 đã dùng liều amlodipine từ 1,25 đến 20 mg. Nếu tính quy ra cân nặng thì độ thanh thải và thể tích phân bố cũng có giá trị tương tự người lớn.
CÁC NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
Hiệu quả hạ huyết áp của COZAAR XQ đã được chứng minh trong 3 nghiên cứu có đối chứng bao gồm 646 bệnh nhân bị tăng huyết áp vô căn. 325 người trong số này được điều trị bằng COZAAR XQ trong 8 tuần. Biến số hiệu quả chính trong tất cả các nghiên cứu là sự thay đổi so với ban đầu về huyết áp tâm trương (DBP) ở tư thế ngồi tại điểm kết thúc. Các biến phụ là thay đổi về huyết áp tâm thu (SBP) ở tư thế ngồi và tỷ lệ người đáp ứng. Thay đổi về huyết áp tâm trương ở tư thế ngồi có ý nghĩa lâm sàng lúc 8 tuần (tiêu chí đánh giá chính) đã được chứng minh với COZAAR XQ so với đơn trị liệu (losartan hoặc amlodipine) trong các nghiên cứu được thực hiện.
Trong một nghiên cứu mù đôi dò liều, tổng cộng 320 bệnh nhân tăng huyết áp nhẹ đến trung bình nhận được điều trị bằng 4 dạng phối hợp của amlodipine và losartan (5/50, 5/100, 10/50 và 10/100 mg) hoặc amlodipine đơn độc (5, 10 mg) hoặc losartan đơn độc (50, 100 mg). Tất cả các liều được bắt đầu ở liều ngẫu nhiên. Ở tuần thứ 8, các điều trị phối hợp COZAAR XQ 5/50 và 5/100 trội hơn có ý nghĩa thống kê so với các thành phần đơn trị liệu về mức giảm huyết áp tâm trương ở tư thế ngồi và huyết áp tâm thu ở tư thế ngồi.
- xem Bảng 1.

Trong một nghiên cứu mù đôi, đối chứng với hoạt chất, tổng cộng 184 bệnh nhân tăng huyết áp nhẹ đến trung bình không được kiểm soát đầy đủ khi dùng amlodipine 5 mg đã nhận được điều trị bằng COZAAR XQ 5/50 hoặc amlodipine 10 mg. Ở tuần thứ 8, COZAAR XQ 5/50 cho thấy hiệu quả làm giảm huyết áp tăng thêm tương tự với amlodipine 10 mg.
- xem Bảng 2.

Trong một nghiên cứu mù đôi, đối chứng với hoạt chất, tổng cộng 142 bệnh nhân tăng huyết áp nhẹ đến trung bình không được kiểm soát đầy đủ khi dùng losartan 100 mg được chuyển sang COZAAR XQ 5/100 mg hoặc vẫn còn điều trị bằng losartan 100 mg. Ở tuần thứ 8, COZAAR XQ 5/100 mg cho thấy hiệu quả làm giảm huyết áp tăng thêm trội hơn so với losartan 100 mg.
- xem Bảng 3.
