Quảng cáo
Quảng cáo
Uroka

Uroka Dược động học

dutasteride

Nhà sản xuất:

Mega Lifesciences
Thông tin kê toa chi tiết tiếng Việt
Dược động học
Hấp thu:
Sau khi uống liều đơn 0,5 mg dutasteride, thời gian đạt nồng độ đỉnh trong huyết thanh là 1-3 giờ. Sinh khả dụng tuyệt đối của thuốc khoảng 60% so với liều truyền tĩnh mạch trong 2 giờ. Sinh khả dụng của dutasteride không bị ảnh hưởng bởi thức ăn.
Phân bố:
Dutasteride có thể tích phân bố lớn (300-500 lít) và liên kết mạnh với các protein huyết tương (> 99,5%). Sau khi sử dụng liều hàng ngày, nồng độ huyết thanh của dutasteride đạt được 65% nồng độ trạng thái cân bằng sau 1 tháng và khoảng 90% sau 3 tháng. Nồng độ ổn định trong huyết thanh (Css) khoảng 40 ng/mL đạt được sau 6 tháng dùng thuốc với liều 0,5 mg 1 lần/ngày. Tương tự như trong huyết thanh, nồng độ dutasteride trong tinh dịch đạt được trạng thái ổn định sau 6 tháng. Sau 52 tuần điều trị, nồng độ dutasteride trong tinh dịch trung bình là 3,4 ng/mL (0,4 đến 14 ng/mL). Dutasteride từ huyết thanh đi vào tinh dịch trung bình là 11,5%.
Chuyển hóa:
In vitro, dutasteride được chuyển hóa bởi isoenzym CYP3A4 của cytochrome P450 ở người thành 2 chất chuyển hóa phụ dạng monohydroxylate, nhưng không bị chuyển hóa bởi CYP1A2, CY2A6, CYP2E1, CYP2C8, CYP2C9, CYP2C19, CYP2B6 hay CYP2D6.
Trong huyết thanh người, sau những liều để đạt được sự ổn định, đánh giá bằng phương pháp khối phổ đã phát hiện được dutasteride dưới dạng không biến đổi, 3 chất chuyển hóa chính (4'-hydroxydutasteride, 1,2-dihydrodutasteride và 6-hydroxydutasteride) và 2 chất chuyển hóa phụ (6,4'- dihydroxydutasteride và 15-hydroxydutasteride). Cũng phát hiện được 5 chất chuyển hóa của dutasteride trong huyết thanh người ở huyết thanh chuột cống, tuy nhiên vẫn chưa biết hóa học lập thể của nhóm hydroxyl gắn tại vị trí 6 và 15 trong chất chuyển hóa ở người và chuột cống.
Thải trừ:
Dutasteride được chuyển hóa rộng rãi. Sau khi uống dutasteride 0,5 mg/ngày để đạt được nồng độ ổn định ở người, 1,0% đến 15,4% (trung bình 5,4%) liều uống được bài tiết vào phân dưới dạng dutasteride. Phần còn lại của liều được bài tiết vào phân dưới dạng 4 chất chuyển hóa chính với tỷ lệ là 39%, 21%, 7% và 7% đối với mỗi chất liên quan đến thuốc và 6 chất chuyển hóa phụ (dưới 5% mỗi chất).
Chỉ một lượng rất nhỏ dutasteride không đổi (dưới 0,1 % liều dùng) được tìm thấy trong nước tiểu người.
Với nồng độ điều trị, thời gian bán thải sau cùng của dutasteride là 3-5 tuần.
Vẫn xác định được nồng độ dutasteride trong huyết thanh (lớn hơn 0,1 ng/ml) đến tận 4-6 tháng sau khi ngừng điều trị.
Tuyến tính/ không tuyến tính:
Dược động học của dutasteride có thể được mô tả như là quá trình hấp thu bậc 1 và hai đường thải trừ song song, một đường bão hòa (phụ thuộc nồng độ) và một không bão hòa (không phụ thuộc vào nồng độ).
Với nồng độ thấp trong huyết thanh (dưới 3 ng/mL), dutasteride nhanh chóng được thải trừ bằng cả đường phụ thuộc nồng độ và không phụ thuộc nồng độ. Những liều đơn 5 mg hay thấp hơn cho thấy bằng chứng thải trừ nhanh và thời gian bán thải ngắn từ 3-9 ngày. Với nồng độ trong huyết thanh cao hơn 3 ng/ml, dutasteride được thải trừ chậm (0,35 – 0,58 lít/giờ) chủ yếu bằng thải trừ tuyến tính, không bão hòa với thời gian bán thải sau cùng 3-5 tuần, ở nồng độ điều trị, sau khi dùng liều nhắc lại 0,5 mg/ngày, thanh thải chậm hơn chiếm ưu thế và thanh thải toàn thân là tuyến tính và không phụ thuộc nồng độ
Dược động học ở một số đối tượng lâm sàng đặc biệt:
Người cao tuổi:
Dược động học của dutasteride được đánh giá trên 36 người nam khỏe mạnh trong độ tuổi từ 24-87 tuổi khi dùng liều đơn dutasteride 5 mg. Phơi nhiễm của dutasteride, thể hiện bằng AUC và Cmax, không khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh giữa các nhóm tuổi. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian bán thải ở nhóm người 50-69 tuổi so với nhóm người trên 70 tuổi, là độ tuổi thường gặp BPH. Không quan sát thấy khác biệt về hiệu quả của thuốc khi đo lường bởi sự giảm DHT giữa các nhóm tuổi. Kết quả cho thấy không cần điều chỉnh liều dutasteride theo tuổi.
Suy thận:
Ảnh hưởng của suy thận đối với dược động học của dutasteride chưa được nghiên cứu. Tuy nhiên, đã phát hiện thấy dưới 0,1% liều uống 0,5 mg dutasteride ở trạng thái ổn định trong nước tiểu người, do đó không có sự gia tăng đáng kể nồng độ dutasteride trong huyết tương trên lâm sàng và không cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân suy thận.
Suy gan:
Ảnh hưởng về dược động học của dutasteride ở người suy gan chưa được nghiên cứu (xem mục Cảnh báo và Thận trọng).
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo