Advertisement
Advertisement
Mydocalm

Mydocalm Dược lý

tolperisone

Nhà sản xuất:

Gedeon Richter
Vidal Prescribing Info
Dược lý
Đặc tính dược lực học
Nhóm dược lý: thuốc giãn cơ, nhóm tác động trung ương khác.
Mã ATC: M03BX04.
Cơ chế tác động
Mydocalm là thuốc giãn cơ tác động trung ương. Cơ chế tác động chính xác của tolperison chưa rõ hoàn toàn.
Tác động dược lực học
Thuốc có ái lực cao với mô thần kinh và đạt nồng độ cao nhất ở các mô thần kinh thân não, tủy sống và ngoại biên.
Tác động nổi bật của tolperison là ức chế đường phản xạ tủy. Tác động này, cùng với tác động ức chế đường kiểm soát hướng xuống, có thể là tác động chính đem lại hiệu quả điều trị của tolperison.
Cấu trúc hóa học của tolperison tương tự lidocain. Tương tự với lidocain, tolperison có tác động ổn định màng và ức chế kích thích điện của các nơ-ron vận động và sợi thần kinh hướng tâm nguyên phát. Tolperison ức chế phụ thuộc liều dùng kênh natri phụ thuộc điện thế, và do vậy biên độ và tần số của điện thế hoạt động giảm (tác động này nổi bật nhất trên các nơ-ron thần kinh ở sừng sau của tủy sống).
Tác động ức chế kênh calci phụ thuộc điện thế đã được chứng minh; điều này gợi ý rằng tolperison có thể cũng làm giảm phóng thích chất dẫn truyền thần kinh cùng với tác động ổn định màng.
Cuối cùng, tolperison đối vận alpha-adrenergic và có tính kháng muscarinic yếu.
Hiệu quả và an toàn lâm sàng
Hiệu quả của tolperison đã được thiết lập trên tình trạng co cứng cơ sau đột quỵ.
Kết quả của một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng trên 120 bệnh nhân co cứng cơ sau đột quỵ cho thấy sự cải thiện có ý nghĩa thống kê cao trong co cứng cơ sau điều trị với tolperison, đánh giá bằng thang Ashworth, là thông số đích ban đầu. Đánh giá tổng quát hiệu quả từ bệnh nhân và nghiên cứu viên đã khẳng định hiệu quả vượt trội của tolperison so với đối chứng (p<0,001). Mức độ cải thiện trung bình về giá trị Ashworth là 32% trong nhóm chủ đích điều trị (ITT) chung, và 42% trong phân nhóm bệnh nhân điều trị với liều hàng ngày 300-450 mg tolperison. Kết quả của các xét nghiệm chức năng cũng cho thấy xu hướng rõ ràng về hiệu quả điều trị tốt hơn của tolperison so với đối chứng, tuy không đạt được mức độ có ý nghĩa thống kê.
Trong một nghiên cứu so sánh ngẫu nhiên, mù đôi trên 48 bệnh nhân tổn thương não, hiệu quả của tolperison tương tự hiệu quả của baclofen trong việc cải thiện chỉ số Barthel, trong khi toperison trội hơn hẳn so với baclofen trong việc cải thiện trên thang đánh giá vận động Revermead (RMAS).
Bằng chứng về lợi ích của liệu pháp tolperison trên bệnh nhân tăng trương lực cơ do các bệnh vận động khác bên cạnh co cứng cơ sau đột quỵ còn nhiều tranh cãi. Mặc dù một số nghiên cứu đã cho thấy kết quả tích cực trên các thông số thử nghiệm, các nghiên cứu khác lại thất bại trong việc chứng minh lợi ích của tolperison đối với các tình trạng này.
Hồ sơ an toàn của tolperison được thiết lập từ dữ liệu của các nghiên cứu lâm sàng trên các bệnh nhân tăng trương lực cơ có bệnh nguyên khác nhau và từ các báo cáo phản ứng bất lợi tự phát.
Đặc tính dược động học
Hấp thu, phân bố và chuyển hóa
Khi dùng đường uống, tolperison được hấp thu tốt ở ruột non. Nồng độ đỉnh huyết tương đạt được từ 0,5-1,5 giờ sau khi uống.
Do chịu sự chuyển hóa đầu tiên mạnh, sinh khả dụng của thuốc đạt khoảng 20%. Bữa ăn giàu chất béo có thể làm tăng sinh khả dụng của tolperison đường uống lên đến khoảng 100% và làm tăng nồng độ đỉnh huyết tương khoảng 45% so với khi dùng thuốc với dạ dày trống, nồng độ đỉnh đạt được chậm khoảng 30 phút.
Tolperison được chuyển hóa mạnh tại gan và thận. Chưa rõ tác động dược lực của các chất chuyển hóa.
Thải trừ
Thuốc được thải trừ chủ yếu qua thận (trên 99%) dưới dạng các chất chuyển hóa.
Nửa đời thải trừ khoảng 2,5 giờ sau khi uống thuốc.
Dữ liệu an toàn tiền lâm sàng
Dữ liệu phi lâm sàng cho thấy không có mối nguy hiểm đặc biệt nào cho người dựa trên các nghiên cứu quy ước về dược lý an toàn, nghiên cứu về độc tính với liều dùng lặp lại, độc tính trên gen và độc tính trên sinh sản.
Những ảnh hưởng trong các nghiên cứu phi lâm sàng chỉ được ghi nhận ở mức phơi nhiễm đủ vượt ngưỡng phơi nhiễm tối đa trên người, cho thấy ít tương quan với sử dụng trên lâm sàng.
Ở chuột và thỏ, độc tính trên bào thai xuất hiện sau khi cho uống liều tương ứng 500 mg/kg cân nặng và 250 mg/kg cân nặng. Tuy nhiên, những liều này cao hơn nhiều lần so với liều điều trị khuyến cáo.
Advertisement
Advertisement
Advertisement
Advertisement
Advertisement
Advertisement
Advertisement